Phân loại nhà nước, trình bày khái quát về từng loại nhà nước, cho ví dụ

tháng 8 26, 2023

 


Phân loại nhà nước là xếp các nhà nước có những đặc điểm, đặc trưng nhất định vào một nhóm, qua đó phân biệt với các nhóm nhà nước khác.

Dựa theo các thời kì lịch sử, có thể chia thành các kiểu nhà nước: nhà nước cổ đại (NN Văn Lang), nhà nước trung đại (NN Đại Việt), nhà nước cận đại (NN Việt Nam thời Pháp thuộc) và nhà nước hiện đại (NN CHXHCNVN).

Dựa vào mức thu nhập bình quân đầu người và sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, các nhà nước hiện đại có thể được chi thành: quốc gia phát triển (Hoa Kì), đang phát triển (Việt Nam), chậm phát triển (Angola).

Dựa vào các nền văn minh, có thể chia thành: nhà nước trong nền văn minh nông nghiệp (Việt Nam), nhà nước trong nền văn minh công nghiệp (Trung Quốc), nhà nước trong nền văn mình hậu công nghiệp (văn minh tri thức) (Hoa Kỳ).

Dựa vào địa lý và các tiêu chí (nhân chủng, ngữ hệ, văn hóa…): kiểu nhà nước phương Đông (Ấn Độ, Trung Quốc) và kiểu nhà nước phương Tây (Hi Lạp)

Dựa trên cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước: nhà nước độc tài chuyên chế (Đức quốc xã), nhà nước dân chủ (CHXHCNVN).

Theo chủ nghĩa Mác – Lenin, theo tiến trình lịch sử của sự phát triển xã hội, dựa theo quan hệ sản xuất:

+ Nhà nước chủ nô:

Ở phương Tây, quá trình biến đổi của xã hội dẫn đến sự ra đời của nhà nước chủ nô diễn ra tương đối nhanh chóng, sở hữu tư nhân phát triển mạnh mẽ, mâu thuẫn giai cấp rất gay gắt. Cơ sở kinh tế của nhà nước chủ nô là quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ, đất đai và các tư liệu sản xuất khác hầu hết đều thuộc sở hữu tư nhân của các chủ nô, kể cả nô lệ. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ tồn tại 2 giai cấp cơ bản: chủ nô và nô lệ, bên cạnh đó là lực lượng dân tự do (giới bình dân). Nô lệ có địa vị vô cùng thấp kém, họ bị coi là tài sản thuộc sở hữu của chủ nô, chủ nô có quyền tuyệt đối đối với nô lệ, khai thác, bóc lột sức lao động, đánh đập, đem bán, tặng cho, bỏ đói, hay giết chết.

Ở phương Đông, quá trình biến đổi của xã hội dẫn tới việc hình thành các nhà nước khá chậm chạm và kéo dài. Nhà nước xuất hiện nhưng công xã nông thôn, tàn tích của chế độ thị tộc vẫn còn tồn tại. Quan hệ sản xuất chủ yếu trong xã hội là quan hệ giữa nhà nước với thành viên công xã nông thôn. Nhà nước là chủ sở hữu tối cao về ruộng đất nhưng kẻ trực tiếp chiếm hữu ruộng đất là các công xã nông thôn, công xã thay mặt nhà nước quản lý ruộng đất và chia cho thành viên trong công xã canh tác để nộp thuế cho nhà nước. Ở những nước này, số lượng nô lệ không nhiều, vai trò của nô lệ trong nền kinh tế khá hạn chế, nô lệ chủ yếu để hầu hạ phục dịch trong các gia đình quý tộc, quan lại hoặc thực hiện những công việc chung của công xã và nhà nước. Địa vị của nô lệ không đến nỗi thấp kém như ở các nước phương Tây. Bộ phận đông đảo nhất trong xã hội là thành viên công xã nông thôn, họ là những người tự do, được công xã định kì chia đều ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước để tự canh tác và nộp thuế cho nhà nước. Có thể nói, chế độ chiếm hữu nô lệ ở phương Đông nhìn chung chưa phát triển và mang nhiều đặc trưng của chế độ nô lệ gia trưởng.

Ý nghĩa lịch sử: Sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước chủ nô là bước tiến của lịch sử nhân loại, nó là tiền đề cho sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa… của các xã hội sau này.

VD: nhà nước Aten, nhà nước Roma, nhà nước Giecman…

+ Nhà nước phong kiến:

Cơ sở kinh tế của nhà nước phong kiến là quan hệ sản xuất phong kiến mà đặc trưng là sở hữu của địa chủ, phong kiến về ruộng đất và bóc lột nông dân thông qua phát canh, thu tô.

Xã hội phong kiến có 2 giai cấp cơ bản: địa chủ, phong kiến và nông dân, ngoài ra còn có các tầng lớp khác: thợ thủ công, thị dân… Giai cấp địa chủ phong kiến được phân chia thành nhiều đẳng cấp khác nhau phụ thuộc vào chức tươc, phẩm hàm, đất đai, tài sản… Nông dân là bộ phận đông đảo nhất trong xã hội phong kiến nhưng đồng thời cũng là đối tượng bị áp bức, bóc lột nặng nề.

VD: nhà nước Đại Việt thời Lý, Trần, Lê…

+ Nhà nước tư sản:

Cơ sở kinh tế của nhà nước tư sản là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đó là quan hệ sản xuất giữa nhà tư bản và công nhân lao động làm thuê. Dưới chế độ tư bản, tư liệu sản xuất đều thuộc sở hữu của các nhà tư bản. Người công nhân không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động của mình cho nhà tư bản để kiếm sống.

Cơ sở xã hội của nhà nước tư sản là quan hệ giữa các giai cấp tầng lớp trong xã hội mà cốt lõi là quan hệ giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản.

Khi mới xuất hiện, giai cấp tư sản là giai cấp tiến bộ trong xã hội, về sau chúng ngày càng bộc lộ rõ tính chất phản động, tiếng hành các cuộc chiến tranh xâm lược, áp bức, bóc lột giai cấp vô sản. Ngày nay, giai cấp vô sản có nhiều biến đổi theo hướng quan tâm, chăm lo nhiều hơn cho người lao động.

VD: Nhà nước Hợp chủng quốc Hoa Kỳ…

+ Nhà nước xã hội chủ nghĩa:

Cơ sở kinh tế của nhà nước XHCN là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mà đặc trưng là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Công hữu về tư liệu sản xuất là mục tiêu cần đạt tới của chủ nghĩa xã hội.

Cơ sở xã hội của nhà nước XHCN là quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, trong đó nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Trong xã hội vẫn có các giai cấp, tầng lớp có lợi ích không hoàn toàn giống nhau nhưng không đối lập nhau mà cơ bản là thống nhất với nhau.

VD: Nhà nước CHXHCNVN, nhà nước CHDCND Trung Hoa…

Xem thêm: 80 CÂU VẤN ĐÁP LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT HLU (download file bộ câu hỏi vấn đáp ở bài này)

Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

You Might Also Like

0 nhận xét