Vận dụng nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của “nguyên lý về mối liên hệ phổ biến” để lý giải về sự ra đời của nhà nước và pháp luật

tháng 9 13, 2023



A. PHẦN MỞ ĐẦU

Nhà nước và pháp luật là đối tượng nghiên cứu của nhiều bộ môn khoa học xã hội. Muốn hiểu rõ bản chất của nhà nước và pháp luật và những quy luật phát triển của chúng, trước hết cần phải làm sáng tỏ nguyên nhân và giải thích quá trình phát sinh của nhà nước và pháp luật. Việc nghiên cứu về nhà nước và pháp luật không thể hạn chế trong lĩnh vực các khái niệm pháp lý thuần túy mà phải đặt trên cơ sở của hệ thống các tri thức khoa học chung, phải dựa vào lý luận và phương pháp luận của nhiều bộ môn khoa học khác nhau, trong đó có Triết học.

Vì thế, sau đây em xin trình bày về đề tài: Vận dụng nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của “nguyên lý về mối liên hệ phổ biến” để lý giải về sự ra đời của nhà nước và pháp luật.

B. NỘI DUNG

I. Cơ sở lý luận: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

1. Khái niệm mối liên hệ

Các sự vật, các hiện tượng và các quá trình khác nhau của thế giới có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau? Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì quy định mối liên hệ đó?

Trong lịch sử triết học, để trả lời cho những câu hỏi đó, ta thấy có nhiều quan điểm khác nhau, đứng trên các lập trường khác nhau.

Đứng trên quan điểm biện chứng, để trả lời cho câu hỏi thứ nhất, người ta cho rằng, các sự vật, hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau. Trả lời cho câu hỏi thứ hai, người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất – thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó, triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng, liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau gữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của hiện tượng trong thế giới.

2. Các tính chất của mối liên hệ

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ có ba tính chất cơ bản: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.

Tính khách quan của mối liên hệ biểu hiện: các mối liên hệ là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng; nó không phụ thuộc vào ý thức của con người.

Tính phổ biến của mối liên hệ biểu hiện: bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào; ở bất kỳ không gian nào và ở bất kỳ thời gian nào cũng có mối liên hệ với những sự vật, hiện tượng khác. Ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ một thành phần nào, một yếu tố nào cũng có mối liên hệ với những thành phần, yếu tố khác.

Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ biểu hiện: sự vật khác nhau, hiện tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì mối liên hệ biểu hiện khác nhau. Có thể chia các mối liên hệ thành nhiều loại: mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu,… Các mối liên hệ này có vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng.

Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối, vì mỗi loại mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên hệ phổ biến. Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hóa lẫn nhau tùy theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động và phát triển của chính các sự vật. Tuy sự phân chia thành các loại mối liên hệ chỉ mang tính tương đối nhưng sự phân chia đó lại rất cần thiết, bởi vì mỗi loại mối liên hệ có vị trí và vai trò xác định trong sự vận động và phát triển của sự vật. Con người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để có cách tác động phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của mình.

Phép biện chứng duy vật nghiên cứu các mối liên hệ phổ biến chi phối sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.

3. Ý nghĩa phương pháp luận

Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến có thể rút ra ý nghĩa về phương pháp luận sau:

- Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hóa, quy định lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng và các mối liên hệ mang tính khách quan, mang tính phổ biến nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm toàn diện, phải tránh cách xem xét phiến diện.

Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức được đúng về sự vật.

Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối liên hệ, phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên và lưu ý đến sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối liên hệ để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân.

Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời, chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, một mặt chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước ta; mặt khác, phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng quốc tế hóa mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn cầu hóa kinh tế đưa lại.

- Vì các mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú – sự vật, hiện tượng khác nhau, không gian, thời gian khác nhau, các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm lịch sử - cụ thể.

Quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển. Thực tế cho thấy rằng, một luận điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này, nhưng sẽ không là luận điểm khoa học trong điều kiện khác. Vì vậy, để xác định đúng đường lối, chủ trương của từng giai đoạn cách mạng, của từng thời kỳ xây dựng đất nước, bao giờ Đảng ta cũng phai phân tích tình hình cụ thể của đất nước ta cũng như bối cảnh lịch sử quốc tế diễn ra trong từng giai đoạn và từng thời kỳ đó và trong khi thực hiện đường lối, chủ trương, Đảng ta cũng bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp với diễn biến của hoàn cảnh cụ thể.

II. Vận dụng nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của “nguyên lý về mối liên hệ phổ biến” để lý giải về sự ra đời của nhà nước và pháp luật.

1. Khái niệm và đặc trưng của nhà nước

Nhà nước là hiện tượng xã hội rất đa dạng và phức tạp, được nhiều ngành khoa học nghiên cứu ở nhiều góc độ, phạm vi khác nhau. Do xuất phát từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, năng lực nhận thức khác nhau, lại bị chi phối bởi yếu tố lợi ích, quan điểm chính trí,… vì vậy có nhiều quan niệm khác nhau về nhà nước.

Theo Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, Đại học Luật Hà Nội, có thể định nghĩa: Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội, bao gồm một lớp người được tách ra từ xã hội để chuyên thực thi quyền lực, nhằm tổ chức và quản lý xã hội, phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội cũng như lợi ích của lực lượng cầm quyền.

So với các tổ chức xã hội khác, Nhà nước có những đặc trưng sau đây: 

- Nhà nước có quyền lực đặc biệt (quyền lực nhà nước).

- Nhà nước thực hiện việc quản lí dân cư theo lãnh thổ. 

- Nhà nước thực thi chủ quyền quốc gia. 

- Nhà nước ban hành pháp luật, dùng pháp luật làm công cụ quản lý xã hội.

- Nhà nước quy định và thực hiện việc thu thuế, phát hành tiền.

2. Khái niệm và đặc trưng của pháp luật

Pháp luật cũng là một khái niệm phức tạp, trải qua các thời đại và ở các khu vực trên thế giới, những vấn đề như bản chất, nguồn gốc, vai trò, phạm vi điều chỉnh của pháp luật… được nhận thức một cách khác nhau.

Ở Việt Nam hiện nay, trong giáo trình của các cơ sở đào tạo và sách báo pháp lí đều nhìn nhận pháp luật dưới góc độ pháp luật thực định. Từ đó có thể hiểu: Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích, định hướng của nhà nước.

Pháp luật có các đặc trưng cơ bản sau:

- Pháp luật có tính quyền lực nhà nước.

- Pháp luật có tính quy phạm phổ biến.

- Pháp luật có tính hệ thống.

- Pháp luật có tính xác định về hình thức.

3. Nguồn gốc của nhà nước

Xuất phát từ những quan niệm khác nhau về nhà nước, dẫn đến có nhiều cách giải thích khác nhau về nguồn gốc của nhà nước.

Các nhà tư tưởng theo thuyết thần học cho rằng, nhà nước là do thượng đế sáng tạo ra. Thượng đế sáng tạo ra con người, sáng tạo ra thế giới, đồng thời sáng tạo ra nhà nước để cai quản con người. Quyền lực nhà nước là do thượng đế ban cho, nhà vua là thiên tử, là sứ giả của thần linh, thay mặt cho thượng đế cai quản xã hội.

Các nhà tư tưởng theo thuyết gia trưởng coi nhà nước là kết quả của sự phát triển gia đình, nhà nước có trong mọi xã hội. Trong mỗi gia đình đều có người gia trưởng đứng đầu làm nhiệm vụ cai quản gia đình, nhà nước được xem như người đứng đầu xã hội, thực hiện việc cai quản xã hội.

Thuyết khế ước xã hội giải thích nguồn gốc nhà nước bắt đầu từ xã hội. Nhà nước ra đời do xã hội giao ước, nhà nước thay mặt xã hội quản lý để giữ cho xã hội trật tự. Nếu nhà nước không hoàn thành nhiệm vụ, xã hội sẽ phế truất nhà nước, lập nên nhà nước khác.

Theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, chế độ cộng sản nguyên thủy là thời kì chưa có nhà nước. Khi mới thoát thai khỏi động vật, con người tụ tập thành từng bầy gọi là bầy người nguyên thủy. Trải qua quá trình phát triển lâu dài, dưới tác động của của nhiều yếu tố, con người dần dần liên kết thành tổ chức thị tộc, bộ lạc… Trong thị tộc duy trì chế độ sở hữu chung, lao động chung và phân phối bình quân. Trong thị tộc không có kẻ giàu, người nghèo, quan hệ giữa người với người là bình đẳng. Người đứng đầu thị tộc không có đặc quyền, đặc lợi gì, họ cùng chung sống, lao động và hưởng thụ như mọi thành viên khác trong thị tộc. Tổ chức thị tộc, bộ lạc tồn tại trong một thời kì lịch sử nhất định rồi dần dần thoái hóa và tan rã. Theo Ăng-ghen có hai nguyên nhân cơ bản làm cho tổ chức thị tộc, bộ lạc tan rã, nhà nước xuất hiện đó là nguyên nhân kinh tế và nguyên nhân xã hội.

Về nguyên nhân kinh tế, sự phát triển của công cụ lao động làm cho năng suất lao động ngày càng được nâng cao, dần dần đủ cho tiêu dùng và có dư thừa. Một số người trong xã hội có sức mạnh hoặc nắm quyền lực mà xã hội giao cho sử dụng quyền lực ấy chiếm của dư thừa thành của riêng, làm nảy sinh mầm mống của chế độ tư hữu. Cũng do sự phát triển của công cụ lao động đã làm cho sản xuất có thể tiến hành riêng mà không cần phải tiến hành chung theo cả cộng đồng. Do vậy, tư liệu sản xuất của cộng đồng dần được chia nhỏ để tiến hành sản xuất riêng theo mỗi gia đình. Dần dần, tư liệu sản xuất chung của cả cộng đồng trở thành sở hữu riêng trong các gia đình, họ có thể đem bán, trao đổi hay để lại cho con cháu kế thừa.

Về nguyên nhân xã hội, cùng với sự xuất hiện của chế độ tư hữu, xã hội có sự phân chia thành các giai cấp, có lợi ích đối lập nhau. Do nhu cầu sức lao động ngày càng tăng, tù binh trong các cuộc xung đột giữa các thị tộc trước kia thường bị giết, giờ đây được giữ lại làm nô lệ. Nô lệ trở thành sở hữu trong các gia đình như các loại tài sản khác. Khi phân hóa giàu nghèo trở nên rõ nét, sự tương trợ giữa các gia đình dần mất đi, thay vào đó là cho vay nặng lãi và cầm cố tài sản… Tất cả những yếu tố đó làm cho của cải ngày càng tích tụ và tập trung và trong tay một số ít người, đồng thời thúc đẩy sự bần cùng hóa của số đông người khác. Xã hội thị tộc dần dần bị phân hóa thành các giai cấp, tầng lớp khác nhau, những người giàu có hợp thành tầng lớp quý tộc, chiếm hữu nhiều ruộng đất, của cải,… những người nghèo khổ chiếm số đông trong xã hội do mất dần của cải và tư liệu sản xuất, cuối cùng rơi vào tình trạng bị lệ thuộc vào tầng lớp trên và bị tầng lớp này áp bức, bóc lột nặng nề. Mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp vì thế đã xuất hiện và ngày càng trở nên sâu sắc.

Mâu thuẫn xã hội ngày càng gia tăng, đấu tranh giai cấp ngày càng gay gắt, tổ chức thị tộc, bộ lạc ngày càng trở nên bất lực, không thể đảm nhiệm vai trò tổ chức và quản lý các công việc chung của cộng đồng. Trong hoàn cảnh đó, nhà nước từng bước được hình thành. Nhà nước xuất hiện để tổ chức và quản lý các công việc chung của cộng đồng, những công việc mà trước đây do thị tộc và bộ lạc đảm nhiệm. Đồng thời, nhà nước xuất hiện còn để làm dịu bớt xung đột giai cấp, giữ cho xung đột đó trong vòng “trật tự”, làm cho “những giai cấp có quyền lợi đối lập nhau đó không đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội” . Nhà nước xuất hiện bởi nhu cầu khách quan của đời sống, nhu cầu tổ chức đời sống chung, đảm bảo trật tự chung. Nhà nước ra đời từ yêu cầu phải kiềm chế những đối kháng giai cấp, nhưng vì nhà nước đồng thời cũng ra đời giữa cuộc xung đột của các giai cấp ấy, cho nên, nó là nhà nước của giai cấp có thế lực nhất, giai cấp thống trị về kinh tế và giai cấp này nhờ có nhà nước, mà trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị và do đó có thêm những thủ đoạn mới để trấn áp và bóc lột giai cấp bị áp bức. 

4. Nguồn gốc của pháp luật

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, pháp luật ra đời cùng với sự ra đời của nhà nước. Những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước cũng chính là những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của pháp luật.

Trong xã hội cộng sản nguyên thủy chưa có nhà nước nên cũng chưa có pháp luật. Để hướng dẫn cho cách xử sự của con người, xã hội nguyên thủy sử dụng phong tục tập quán, đạo đức, tín điều tôn giáo… Các quy tắc xử sự này hình thành một cách tự phát trong cộng đồng trên cơ sở điều kiện kinh tế xã hội cụ thể lúc bấy giờ. Khi điều kiện kinh tế, xã hội thay đổi, trong xã hội xuất hiện các quan hệ xã hội mới, tương đối đa dạng, phức tạp mà các quy tắc đạo đức, phong tục tập quán… không điều chỉnh hết hoặc điều chỉnh không có hiệu quả hoặc không thể điều chỉnh được. Trong điều kiện đó, nhà nước xuất hiện, để tổ chức, quản lý đời sống xã hội phức tạp đó, nhà nước từng bước làm xuất hiện một loại quy tắc ứng xử mới, đó chính là pháp luật. Thông qua nhà nước, pháp luật hình thành bằng các con đường, một là, nhà nước thừa nhận các quy tắc xử sự có sẵn trong xã hội nhưng phù hợp với ý chí của nhà nước, nâng chúng lên thành pháp luật; hai là, nhà nước thừa nhận giải quyết các vụ việc cụ thể trong thực tế, sử dụng làm khuôn mẫu để giải quyết các vụ việc khác có tính tương tự; ba là, nhà nước đặt ra các quy tắc xử sự mới.

Pháp luật xuất hiện một cách khách quan, là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên của đời sống xã hội. Nhà nước không sinh ra pháp luật, trong sự hình thành pháp luật nhà nước chỉ có vai trò như người “bà đỡ”, nhà nước chỉ làm cho pháp luật “hiện diện” trong đời sống với những hình thức xác định.

5. Mối quan hệ biện chứng giữa nguồn gốc nhà nước và pháp luật

Nhà nước và pháp luật là hai thành tố của thượng tầng chính trị - pháp lý, luôn có mối quan hệ khăng khít, không thể tách rời. Cả hai hiện tượng pháp luật và nhà nước đều có chung nguồn gốc, cùng phát sinh và phát triển. Nhà nước không thể tồn tại và phát huy quyền lực nếu thiếu pháp luật; ngược lại pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và có hiệu lực khi dựa trên cơ sở sức mạnh của quyền lực nhà nước. Khi xem xét các vấn đề nhà nước và pháp luật, phải đặt chúng trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau.

Về phương diện lịch sử, nhà nước và pháp luật tuy cùng nguyên nhân xuất hiện song không phải hoàn toàn đồng nhất. Xuất hiện như một tất yếu lịch sử, cả nhà nước và pháp luật đều là cái cần phải có để đáp ứng nhu cầu xã hội song những thuộc tính, đặc điểm của pháp luật thì mãi dần về sau mới khẳng định được. Chính những nhu cầu của xã hội mà trước hết là kinh tế đã đặt cơ sở cho sự ra đời của nhà nước và pháp luật. Ngoài nguyên nhân kinh tế, sự hình thành nhà nước và pháp luật còn chịu sự tác động mạnh mẽ của các nhân tố xã hội khác như tôn giáo, dân tộc, văn hóa, đạo đức, tư tưởng… Nếu như nhà nước xuất hiện như một tất yếu để duy trì trật tự xã hội thì pháp luật xác lập cơ chế pháp lí để đạt được mục đích này. Từ thời điểm xuất hiện, nhà nước và pháp luật đã có mối liên hệ nội tại, logic, cùng vận động và phát triển, sự tồn tại biệt lập của chúng là điều không thể xảy ra.

Khi ta nói pháp luật và nhà nước là “hai người bạn đồng hành” cùng ra đời, điều đó xét về mặt logic tổng thể là đúng song thực ra là một cách nói ước lệ để khẳng định mối quan hệ biện chứng không thể thiếu nhau của chúng mà thôi. Trên thực tế, sự hình thành pháp luật xét về thời gian là muộn hơn nhà nước. Nhiều nơi phải mất hàng thế kỉ, nhà nước mới đưa ra những bộ luật thành văn. Mà các bộ luật đầu tay đó thực chất là những bộ tổng luật bao gồm các quy tắc do nhà nước đặt ra, các quy tắc tôn giáo, đạo đức, tập quán phong tục của thời tiền giai cấp cùng với việc tổng hợp nhiều lĩnh vực pháp luật công và tư.

III. Nguồn gốc sự ra đời nhà nước và pháp luật ở Việt Nam

1. Sự ra đời nhà nước

Từ thuở xa xưa, nhân dân ta đã lưu truyền những huyển thoại về thời Hùng Vương – thời đại hình thành nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Dựa vào truyền thuyết dân gian và thư tịch cổ Trung Hoa, nhiều học giả trung và cận đại đã phác họa được một phần bức tranh thời đại Hùng Vương tồn tại khoảng 2000 năm (từ thiên kỉ II TCN đến thế kỉ I-II TCN) ở khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay.

Vào đầu thời kì Hùng Vương, hay giai đoạn Phùng Nguyên, công cụ bằng đá vẫn hoàn toàn chiến ưu thế, hái lượm, trồng trọt, làm nương rẫy vẫn là chủ yếu so với chăn nuôi và làm nghề thủ công. Qua các giai đoạn Đồng Đậu, Gò Mun, nhất là Đông Sơn, công cụ lao động đã có những bước tiến lớn, chủ yếu là công cụ bằng đồng thau và bắt đầu xuất hiện công cụ bằng sắt. Bước chuyển từ nền nông nghiệp dùng cuốc sang dùng cày đã góp phần nâng cao năng suất lao động và nền kinh tế nhiều ngành nghề ngày càng phát triển. Hái lượm và săn bắt vẫn tồn tại nhưng bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Trồng trọt, chăn nuôi và các nghề thủ công phát triển mạnh.

Sự phát triển của sức sản xuất và kinh tế đã tạo ra sản phẩm thăng dư trong xã hội, từ đó tác động trực tiếp tới phân hóa xã hội, thể hiện nổi bật ở ba hiện tượng:

Một là vào cuối thời Hùng Vương, những gia đình nhỏ đã ra đời và trở thành tế bào kinh tế xã hội, đồng thời chế độ mẫu hệ cũng chuyển sang chế độ phụ hệ. Những truyền thuyết Sơn Tinh-Thủy Tinh, Chử Đồng Tử-Tiên Dung, trầu cau… đều phản ánh tập tục cư trú bên nhà chồng – hình thức hôn nhân phụ hệ của gia đình nhỏ.

Hai là sự hình thành và tồn tại bền vững của công xã nông thôn với chế độ sở hữu chung về ruộng đất. Trong công xã nông thôn, tuy ruộng đất vẫn thuộc quyền sở hữu công xã nhưng đã được chia cho các thành viên công xã, những gia đình nhỏ để canh tác và các thành viên được quyền sở hữu sản phẩm lao động của mình.

Ba là xã hội người Việt cổ bị phân hóa thành các tầng lớp người khác nhau về địa vị kinh tế-xã hội. Theo truyền thuyết dân gian được tập hợp trong Lĩnh Nam chích quái và thư tịch cổ, trong xã hội thời Hùng Vương có lớp người thống trị gồm Hùng Vương, lạc hầu, lạc tướng, bồ chính, quan lang, mị nương… và lớp người lao động thấp kém gọi là thần bộc nữ lệ hay nô tì… Ngoài ra còn có dân Lạc – một lớp dân cư đông đảo trong xã hội, những thành viên của công xã nông thôn. 

Cuối thời Hùng Vương, sự phân hóa xã hội tuy chưa tới mức cao nhưng cùng với sự phát triển kinh tế đã tạo nên tiền đề vật chất cần thiết cho khả năng ra đời của nhà nước. Ngoài ra, yếu tố thủy lợi và tự vệ đã có những tác động mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành nhà nước sớm hơn trên cơ sở phân hóa xã hội là tiền đề vật chất không thể thiếu được nhưng chưa thật chín muồi. Điều này có thể được chứng minh qua truyền thuyết Sơn Tinh-Thủy Tinh và Thánh Gióng.

Qua đó, có thể giải thích sự ra đời sớm hơn của nhà nước như sau:

Một là cơ cấu tổ chức trong chế độ công xã nguyên thủy không thể đảm đương nổi công việc lớn lao trong tự vệ và trị thủy mà đòi hỏi phải có một loại cơ cấu tổ chức mới, đó là nhà nước. Nhà nước là cơ cấu tổ chức rộng lớn bao trùm toàn xã hội và chặt chẽ nhất; nhà nước có khả năng cưỡng chế, có phương tiện tổ chức và quản lí đặc trưng là pháp luật. Vì vậy, nhà nước có khả năng huy động lực lượng lớn sức người, sức của để thực hiện công cuộc đấu tranh để tự về và trị thủy.

Hai là, các thủ lĩnh ngày càng có địa vị và có vai trò quan trọng trong xã hội, quyền lực và tài sản của họ tích tụ ngày càng lớn, các phương pháp, biện pháp, hình thức hoạt động nhằm duy trì trật tự xã hội cũng như địa vị xã hội, quyền lực và tài sản đó ngày càng thể hiện tính tập trung, độc đoán nhiều hơn, đòi hỏi phải có những cơ cấu tổ chức mới, thôi thúc sự ra đời sớm của nhà nước.

2. Sự ra đời của pháp luật

Pháp luật ra đời từ khi nhà nước xuất hiện. Khi nhà nước được hình thành, quốc gia được xác lập, các quan hệ xã hội phát triển cả về phạm vi, mức độ và tính chất thì phong tục, tập quán không còn khả năng để điều chỉnh được tất cả các quan hệ xã hội. Để đáp ứng nhu cầu khách quan đó, một loại quy phạm mới, khác hẳn với phong tục tập quán đã ra đời, đó là pháp luật. Theo đó, vào cuối thời đại Hùng Vương, nhà nước xuất hiện thì đương nhiên pháp luật cũng xuất hiện. Hình thức đầu tiên của pháp luật là tập quán pháp. Tập quán pháp điều chỉnh những quan xã hội như quan hệ sở hữu, chiếm hữu và sử dụng rộng đất, quan hệ về trật tự xã hội… Ngoài ra còn có các tập quán chính trị: tập quán truyền ngôi, tập quán cống nạp…

Hình thức thứ hai là pháp luật khẩu truyền, ý chí của người thống trị đối với xã hội nhiều khi được ban ra bằng miệng và không được ghi bằng văn bản. Một hình thức nữa là pháp luật thành văn. Mặc dù hiện tại chưa rõ thời đại Hùng Vương có chữ viết hay chưa, nhưng có thể giả định rằng, khi phạm vi lãnh thổ nhà nước được mở rộng thì phải có cách thức thể hiện và truyền mệnh lệnh của người chỉ huy bằng các dấu hiệu đặc thù, ngắn gọn và cụ thể.

Tóm lại, nhà nước Văn Lang-Âu Lạc đã có pháp luật nhưng đó là hình thức sơ khai và chủ yếu là tập quán pháp, còn mang đậm tàn dư của chế độ nguyên thủy và như Việt sử lược nhận xét, đó là xã hội có “phong tục thuần hậu chất phác”.

C. KẾT LUẬN

Như vậy, ta có thể thấy, nhà nước và pháp luật là những vấn đề vô cùng phức tạp, không thể nhìn nhận chúng một cách phiến diện, một chiều mà phải nhìn một cách đa diện đa chiều. Khi xem xét vấn đề nguồn gốc của nhà nước và pháp luật cần xem xét chúng trong các “mối quan hệ phổ biến”, đặt chúng trong mối quan hệ với nhau và trong mối quan hệ với các hiện tượng xã hội khác.

Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU

Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395


You Might Also Like

0 nhận xét