Dựa trên cơ sở lý thuyết thị trường và thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, hãy chứng minh luận điểm "Được mùa thì mất giá, mất mùa thì được giá"

tháng 9 25, 2023

Đề bài: Dựa trên cơ sở lý thuyết thị trường (Cung, cầu và giá cả) và thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, hãy chứng minh cho luận điểm "Được mùa thì mất giá, mất mùa thì được giá". Nhà nước cần làm gì để nền nông nghiệp nước nhà phát triển ổn định và bền vững


LỜI MỞ ĐẦU

Cung – Cầu, hai đầu cơ bản của cán cân thương nghiệp, là nhân tố quyết định sự phát triển, mở rộng của nền kinh tế. Xã hội phát triển, các quốc gia trên thế giới hầu hết đều bắt nhịp định hướng nền kinh tế thị trường. Nghe qua, những vấn đề này mang tầm vĩ mô, không thiết thực như cách người ta hay nói về đồng tiền bát gạo, về nỗi lo mưu sinh… Nhưng thực chất, tìm hiểu về quy luật cung-cầu, sự tác động của giá, ta mới thấy được tầm quan trọng cũng như vai trò của chúng trong đời sống hàng ngày.

Điển hình như câu nói cửa miệng của rất nhiều tiểu thương mà tin chắc rằng không hề biết đến lí thuyết thị trường là gì: “Được mùa thì mất giá, mất mùa thì được giá”. Câu nói này không chỉ là lời khẳng định, đúc rút kinh nghiệm mà còn mang trong đó cơ sở lí thuyết thị trường (Cung – Cầu & Giá cả). Đi sâu nghiên cứu vấn đề này chúng ta sẽ thấy được quy luật cung-cầu cũng như sự ảnh hưởng từ yếu tố giá cả.

Bên cạnh đó, từ thực tiễn thị trường ta cũng có thể nhận thấy thực trạng phát triển nền kinh tế, những yêu cầu, thách thức đối với Nhà nước trong công cuộc phát triển nền nông nghiệp nước nhà ổn định và bền vững. Điều này là vô cùng thiết yếu đối với một quốc gia có thế mạnh về nông nghiệp như Việt Nam với các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là nông sản. Một khi Nhà nước đưa ra đường lối, chính sách phát triển bền vững và hợp lí thì người nông dân mới yên tâm sản xuất, từ đó tính chuyên môn được nâng cao kéo theo năng suất tăng, đạt hiệu quả tốt.

Từ những nguyên nhân đó, nhóm chúng em xin trình bày một số ý kiến cũng như đề ra phương hướng, cách thức phát triển nên nông nghiệp bền vững và ổn định. Trong quá trình hoàn thiện bài tập, do vẫn còn nhiều về hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên không thể tránh khỏi những khiếm khuyết, kính mong sẽ nhận được sự nhận xét và đóng góp ý kiến từ phía các thầy cô trong tổ bộ môn để bài làm của chúng em thêm phần hoàn thiện. 

Chúng em xin chân thành cảm ơn!

B. NỘI DUNG

I. Khái quát chung về thị trường cung - cầu và giá cả

1. Cung

Một số khái niệm:

+ Cung: là số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà người bán có khả năng và sẵn sàng bán ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất => Cung thể hiện mục đích bán hàng của nhà sản xuất. 

+ Lượng cung: là lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà người bán sẵn sàng và có khả năng bán ở mức giá đã cho trong một thời gian nhất định. 

+ Luật cung: Số lượng hàng hóa được cung trong khoảng thời gian đã tăng lên khi giá của nó đã tăng lên. 

Các yếu tố ảnh hưởng đến cung: 

+ Yếu tố nội sinh: giá (giá của chính mặt hàng đó)

+ Yếu tố ngoại sinh (yếu tố ngoài giá): công nghệ; giá của các yếu tố sản xuất (đầu vào); chính sách thuế; số lượng người sản xuất, các kì vọng, ...

2. Cầu

Một số khái niệm:

+ Cầu: là số lượng hàng hóa hay dịch vụ mà người mua có khả năng mua và sẵn sàng mua ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định => Thể hiện mức mua sắm của người tiêu dùng.

+ Lượng cầu: là lượng hàng hòa và dịch vụ mà người mua sẵn sàng hoặc có khả năng mua ở mức giá đã cho trong một thời gian nhất định. 

+ Luật cầu: số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ được cầu trong khoảng thời gian đã cho tăng lên khi giá hàng hóa hoặc dịch vụ giảm xuống. 

Các yếu tố ảnh hưởng đến cầu:

+ Yếu tố nội sinh: giá (giá của chính hàng hóa đó)

+ Yếu tố ngoại sinh: thu nhập của người tiêu dùng; giá của các loại hàng hóa liên quan (hàng hóa thay thế hoặc hàng hóa bổ sung); dân số; thị hiếu; các kì vọng.

3. Cân bằng cung - cầu

a. Trạng thái cân bằng cung - cầu

Khi cầu đối với mặt hàng nào đó xuất hiện trên thị trường, người sản xuất sẽ tìm cách đáp ứng mức cầu đó.

Trạng thái cân bằng cung-cầu đối với một hàng hóa nào đó là trạng thái khi việc cung hàng hóa đó đủ thỏa mãn cầu đối với nó trong một thời kỳ nhất định. Tại trạng thái cân bằng này chúng ta có giá cân bằng và sản lượng cân bằng.

Mức giá cân bằng này không được xác định bởi hoạt động tập thể của toàn bộ người mua và người bán. Đây chính là cách quy định khách quan theo “bàn tay vô hình” của cơ chế thị trường.

b. Trạng thái dư thừa và thiếu hụt của thị trường

Khi giá của thị trường không bằng với mức giá cân bằng, chúng sẽ lớn hơn hoặc nhỏ hơn mức giá đó.

Với các mức giá thấp hơn mức giá cân bằng trên thị trường, mức lợi nhuận đối với các nhà sản xuất sẽ giảm xuống và các nhà sản xuất sẽ có ít mong muốn cung cấp hàng hóa cho thị trường (theo luật cung). Đồng thời, khi giá thấp tạo điều kiện cho người tiêu dùng có khả năng mua hàng hóa (theo luật cầu) và do đó, khoảng cách giữa cung và cầu càng lớn, gây lên hiện tượng thiếu hụt trên thị trường. Thiếu hụt của thị trường là kết quả của việc cầu lớn hơn cung ở một mức giá nào đó.

Nói cách khác đó là thặng dư của cầu.

Với các mức giá cao hơn giá cân bằng trên thị trường, người sản xuất sẽ mong muốn cung nhiều hàng hóa hơn (theo luật cung). Tuy niên người tiêu dùng sẽ giảm bớt cầu của mình (theo luật cầu). Và như vậy, sẽ xuất hiên sự dư thừa trên thị trường. Sự dư thừa của thị trường là kết quả việc cung lớn hơn cầu ở một mức giá nào đó. Nói một cách khác đó là sự thặng dư của cung.

Do vậy, bất cứ khi nào giá thị trường cao hoặc thấp hơn giá cân bằng thì sẽ xuất hiện sự dư thừa hoặc thiếu hụt trên thị trường. Để khắc phục hiện tượng dư thừa hoặc thiếu hụt này thì người bán và người mua phải tự thay đổi hành vi của họ để đạt tới mức giá cân bằng.

c. Sự thay đổi của trạng thái cân bằng

Hoạt động tập thể của người mua và người bán sẽ hình thành nên giá cân bằng cho bất cứ loại hàng hóa nào. Tuy nhiên, mức giá cân bằng này sẽ không phải là vĩnh viễn. Mức giá cân bằng này sẽ thay đổi bất cứ khi nào các đường cung hoặc cầu mới xuất hiện. 

4. Giá cả

Đối với người mua: Giá cả là khoản tiền mà họ phải trả để được quyền sử dụng hay sở hữu sản phẩm dịch vụ. Giá cả thường là chỉ số quan trọng được sử dụng trong quá trình đánh giá và lựa chọn hàng hóa. Bên cạnh đó, người mua thường có xu hướng ứng xử là chọn nhà cung cấp có giá thấp khi các điều kiện khác là tương đương nhau. Giá cả quan trọng nhưng không phải là tiêu chuẩn duy nhất ảnh hưởng đến quyết định mua.

Đối với người bán: Giá cả là khoản thu nhập nhận được nhờ vào việc tiêu thụ sản phẩm. Họ thường có xu hướng ứng xử là mong muốn bán được sản phẩm với giá cao. Các quyết định về giá bao gồm: lựa chọn mức giá; xác lập các mức giá bán khác nhau tùy theo điều kiện; các quyết định thay đổi giá, sử dụng giá để đối phó với đối thủ cạnh tranh.

Giá cả không chỉ ánh hưởng đến người mua, người bán, nó còn ảnh hưởng đến cung - cầu. Điều này được biểu hiện như sau: Giá cả là yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến lượng cung của hàng hóa và dịch vụ. Cung tỉ lệ thuận với giá cả. Khi giá cao thì lượng cung tăng lên và ngược lại. Ngoài ra giá cả còn là nhân tố tác động trực tiếp và tỉ lệ nghịch với lượng cầu. Giá cả hàng hóa cao thì lượng cầu thấp đi và ngược lại.

Tại trạng thái cân bằng cung – cầu, trạng thái khi việc cung hàng hóa đó đủ thỏa mãn cầu đối với nó trong một thời kì nhất định thì chúng ta có giá cân bằng.

Tuy nhiên đến khi các đường cung, cầu mới xuất hiện thì trạng thái cân bằng mới sẽ được hình thành.

II. Giải thích quy luật “Được mùa mất giá, mất mùa được giá.”

“Được mùa, mất giá” là vấn đề có tính quy luật, có thể giải thích dựa vào sự thay đổi trạng thái cân bằng thị trường. Giả sử ban đầu, thị trường cân bằng tại E1 với giá cân bằng là P1, lượng cân bằng là Q1. Do được mùa nên cung nông sản tăng, đường cung dịch sang phải từ S1 sang S2. Nếu mức giá vẫn duy trì ở mức P1, lượng cung lớn hơn lượng cầu, do đó xảy ra tình trạng dư nông sản. Điều này buộc người nông dân phải giảm giá bán cho đến khi thị trường đạt điểm cân bằng mới E2. Lúc này, giá cân bằng giảm từ P1 xuống P2, lượng cân bằng tăng từ Q1 lên Q2.



 

“Mất mùa, được giá” là vấn đề có tính quy luật, có thể giải thích dựa vào sự thay đổi trạng thái cân bằng thị trường. Giả sử ban đầu, thị trường cân bằng tại E2 với giá cân bằng là P2, lượng cân bằng là Q2. Do mất mùa nên cung nông sản giảm, đường cung dịch sang trái từ S2 sang S1. Nếu mức giá vẫn duy trì ở mức P2, lượng cung ít hơn lượng cầu, do đó xảy ra tình trạng thiếu nông sản. Điều này buộc người nông dân phải tăng giá bán cho đến khi thị trường đạt điểm cân bằng mới E1. Lúc này, giá cân bằng tăng từ P2 lên P1, lượng cân bằng tăng từ Q2 lên Q1.

1. Thực tiễn và nguyên nhân của hiện tượng này tại Việt Nam

Những năm qua, chúng ta thường thấy trên các mặt báo hàng típ “Vải được mùa, lại lo rớt giá”, “Dưa gang được mùa, mất giá”, “Nhãn lồng Hưng Yên mất mùa được giá” hay các chiến dịch giải cứu dưa, cứu chuối, cứu vải, cứu thịt heo, cứu hành... Điệp khúc được mùa, mất giá là câu chuyện “biết rồi, nói mãi” nhiều năm qua nhưng chưa thể giải quyết được.Vậy nguyên nhân do đâu?

Thứ nhất, do tập quán sản xuất và tính nông dân còn quá cao. Tập quán sản xuất biểu hiện ở việc cứ thích gì làm nấy, thích làm lúc nào thì làm mà thiếu đi một tính liên kết, mà việc liên kết trong sản xuất bền vững sẽ hình thành liên kết tiêu thụ ổn định. Tính nông dân biểu hiện ở việc chúng ta hay “bắt chước” (làm theo) những gì mình thấy, mình nghe mà chưa thật sự tìm hiểu sâu hơn về những đối tượng đó tạo thành những phong trào nhà nhà sản xuất loại này, đồng đồng trồng cây loại này dẫn đến cung vượt cầu và cuối cùng là tình trạng dư thừa do sản xuất ồ ạt. Ví dụ điển hình cho việc này là phong trào trồng ớt. Trong những năm qua, đôi lúc giá ớt lên cao 20-40000đ/kg nhưng có lúc chỉ có 2000đ/kg và thậm chí là không có người thu mua. Hay như hiện nay, khi giá cây sưa ở thị trường chợ đen tăng cao, người dân ở Bắc Giang lại đổ xô đi phá bỏ vải thiều tuy đã trở thành đặc sản của Bắc Giang để trồng sưa.

Thứ hai, nông sản nước ta chủ yếu xuất sang các quốc gia khác, chủ yếu là Trung Quốc theo đường tiểu ngạch, nên khi Trung Quốc xiết chặt hàng hóa nhập khẩu, nông sản Việt Nam khó có thể xuất sang nước bạn. Tháng 10 vừa qua, Trung Quốc thay đổi phương thức giao chuyển hàng, tăng cường kiểm soát hàng hóa từ Việt Nam khiến hàng trăm xe container chở nông sản xuất khẩu bị dồn ứ ở các cửa khẩu tỉnh Lạng Sơn.

Thứ ba, do vai trò điều phối của nhà nước, doanh nghiệp trong tiêu thụ và chế biến các sản phẩm nông sản chưa rõ nét. Các hộ sản xuất ở nước ta còn nhỏ lẻ, manh mún, rời rạc, sản xuất theo thói quen mệnh ai nấy làm. Việt Nam có đến 9,2 triệu nông dân nhỏ lẻ và số lượng hộ nông dân có liên kết doanh nghiệp rất hạn chế. Chẳng hạn như trong lĩnh vực gạo và chè, chỉ có 10% hợp tác với doanh nghiệp, còn trong lĩnh vực chăn nuôi thì có 16%. Việt Nam cũng chỉ có 33.500 trang trại với 7.000 hợp tác xã và 3.500 doanh nghiệp nhỏ. Từ đó dẫn đến khâu sản xuất cũng nhỏ lẻ, đầu tư cho khoa học công nghệ rất ít, năng suất lao động thấp, và sản phẩm của chúng ta khó cạnh tranh.

Thứ tư, sản lượng cao nhưng chất lượng thì thấp, chất lượng không theo kịp với sản xuất. Tuy trên thị trường hiện nay có nhiều loại nông sản sản xuất theo quy trình chuẩn chất lượng VietGAP, VietGAP, Global GAP, ... nhưng đa số hầu như sản xuất quy mô nhỏ hoặc hộ gia đình hay sản xuất không đảm bảo an toàn. Dẫn đến nông sản nông dân làm ra không thể xuất khẩu cũng không thể tiêu thụ trong nước. Ví dụ, Bộ y tế – Lao động và Phúc lợi Nhật Bản thông báo trong vòng 4 tháng đầu năm 2019, cơ quan chức năng Nhật Bản đã kiểm tra và phát hiện nhiều lô nông sản của Việt Nam xuất khẩu nhiễm dư lượng thuốc bảo vệ thực vật vượt ngưỡng giới hạn cho phép của Nhật như thanh long, rau ngót tươi, mùi tàu… Hay hàng Việt Nam xuất khẩu sang EU cũng liên tục bị trả về vì không đảm bảo chất lượng. Cụ thể, Tây Ban Nha từ chối nhập khẩu 8 lô hạt hạnh nhân có xuất xứ từ Australia và được chế biến tại Việt Nam do chứa chất aflatoxin vượt mức cho phép…

Thứ năm, do thiên tai, dịch bệnh làm cây trồng, vật nuôi bị chết, cho năng suất không cao. Tử đó làm lượng cung trên thị trường giảm sút. Trong 9 tháng vừa qua, dịch tả lợn châu Phi lần lượt bùng phát tại 63 tỉnh, thành trên cả nước. Chúng ta đã tiêu hủy khoảng 4,4 triệu con lợn, gây thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng (số liệu tháng 9/2019). Tại miền Bắc, trong tháng 8, giá lợn hơi tăng 4.000 - 10.000 đồng/kg, dao động từ 44.000 – 50.000 đồng/kg. tại miền Trung, Tây Nguyên, giá lợn hơi cũng tăng 6.000 - 8.000 đồng/kg lên mốc 39.000 - 46.000 đồng/kg tùy địa phương. Giá lợn hơi tại miền Nam tiếp tục đà tăng, đồng loạt ở mức 8.000-10.000 đồng/kg, dao động từ 35.000 - 42.000 đồng/kg.

2. Đề xuất biện pháp giải quyết tình trạng “được mùa mất giá, mất mùa được giá” trong phát triển nông nghiệp Việt Nam.  

a) Tái quy hoạch nền nông nghiệp theo hướng phát triển bền vững và sản xuất hàng hóa

Với một điều kiện thuận lợi (khí hậu nóng ẩm, đất trồng màu mỡ, nông dân có nhiều kinh nghiệm trong sản xuát nông sản...), Việt Nam rõ ràng có rất nhiều thế mạnh trong việc phát triển sản xuất nông sản, đặc biệt là nông sản nhiệt đới, một số loại đặc sản, sản phẩm nông nghiệp đặc trưng. Vì vậy, để tránh tình trạng “được mùa mất giá”, “mất mùa được giá” thì phải quy hoạch định hướng phát triển chuyên canh nông sản theo vùng (có những vùng chuyên canh cây công nghiệp dài ngày, cây ngắn ngày, cây lương thực, cây thực phẩm, cây ăn quả...) trên cơ sở phát huy tối đa lợi thế tự nhiên của vùng, quy hoạch và phát triển có hiệu quả, tạo lợi thế cạnh tranh với giá thành hợp lý, chất lượng cao so với thị trường khu vực và trên thế giới. Đặc biệt, phải có một tầm nhìn dài hạn trong quy hoạch nông nghiệp, tránh lối tư duy ham lợi trước mắt mà phá vỡ quy hoạch, gây ảnh hưởng xấu đến cân bằng thị trường.

Phát huy lợi thế và khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa tại các vùng, miền, gắn với thị trường tiêu thụ; trong đó, xác định rõ các mục tiêu, đưa ra các phương án bố trí sản xuất, các nhiệm vụ ưu tiên và các giải pháp phù hợp để ứng phó với biến đổi khí hậu và tình trạng biến động thị trường nông sản trong nước và trên thế giới trong dài hạn.

Xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam, từ đó giúp nâng cao giá trị sản phẩm, đẩy mạnh khâu quảng bá thế mạnh, đặc sản của nông sản nước nhà cho bạn bè thế giới, từ đó, có thể đẩy mạnh xuất khẩu ra thị trường các nước phát triển, giúp cân bằng cung - cầu ở thị trường trong nước, từ đó đảm bảo bình ổn giá cả cũng như tránh gây thiệt hại không đáng có cho các bên tham gia chuỗi sản xuất và phân phối nông nghiệp.

Đẩy mạnh công nghiệp chế biến, đây là một yếu tố sống còn đồi với một nền nông nghiệp hàng hóa phát triển bền vững, bởi lẽ một nền nông nghiệp bền vững gắn với một ngành công nghiệp chế biến phát triển sẽ tạo điều kiện cho việc bảo quản lâu dài sản phẩm nông nghiệp (một giải pháp trước mắt hữu hiệu để giải quyết trình trạng dư thừa nông sản thô), về dài hạn, công nghiệp chế biến còn góp phần nâng cao giá trị, tạo dựng thương hiệu cạnh tranh cho sản phẩm.

Trên cơ sở quy hoạch bài bản và định hướng phát triển dài hạn nông nghiệp, cần tiến tới xây dựng một chuỗi khép kín từ sản xuất đến phân phối sản phẩm nông nghiệp, đảm báo quyền lợi cho mọi “mắt xích” trong chuỗi sản xuất – phân phối này, đặc biệt là người nông dân và người tiêu dùng.

b) Các chính sách nhanh nhạy, linh hoạt của Nhà nước đối với thị trường nông sản và phát triển nông nghiệp dài hạn

Về trước mắt, phải xây dựng quỹ trợ giá để bình ổn, giữ vững quy hoạch vùng, ổn định sản phẩm bằng hình thức hàng rào kỹ thuật. Những lúc sản phẩm có giá đột biến cao hơn nhiều so với giá thành thì Nhà nước nên đánh thuế xuất khẩu để xây dựng quỹ bình ổn giá. Đồng thời, cũng cần hạn chế thấp nhất khâu lưu thông dịch vụ lòng vòng đẩy giá, ép giá nông dân.

Chính phủ cần xây dựng một cơ chế dự báo cung – cầu cho mọi loại mặt hàng nông sản, công khai tới cả người sản xuất, người trung gian phân phối cũng như người tiêu thị sản phẩm, tránh tình trạng nông dân không nắm bắt được thông tin về thị trường nông sản do Nhà nước không có một cơ chế thông tin chính xác, minh bạch.

Về lâu dài, đi cùng với yêu cầu tất yếu là phải tái quy hoạch nền nông nghiệp theo hướng phát triển bền vững và sản xuất hàng hóa, cũng cần xây dựng nhiều chính sách tạo động lực cho phát triển nông nghiệp như: khuyến khích, hỗ trợ phát triển sản xuất, hỗ trợ tiêu thụ nông sản, phát triển thị trường trong nước, v.v...

Với sự phát triển của công nghệ hiện đại, việc áp dụng công nghệ vào nông nghiệp cũng là một xu thế tất yếu nhằm phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Phát triển công nghê trong nông nghiệp giúp nâng cao hiệu quả khai thác đất trồng, nâng cao chất lượng nông sản, tạo điều kiện cho xuất khẩu nông sản ra thế giới.

Mở rộng thị trường để thu hút đầu tư mạnh mẽ của nước ngoài cho nông nghiệp, đẩy mạnh xuất khẩu nông sản ra nước ngoài trên cơ sở chính sách minh bạch, thuận tiện, kiến tạo và đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư nước ngoài, cũng như tận dụng vị thế quốc tế đang ngày càng lớn mạnh của Việt Nam để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản nước nhà ra quốc tế trên cơ sở một nền nông nghiệp sạch, có thương hiệu, chế biến hoàn thiện.

Phát triển phân khúc nông sản đặc sản và các sản phẩm độc quyền, chỉ có tại Việt Nam hoặc Việt Nam có thế mạnh nổi bật, vượt trội trong sản xuất.

c) Người nông dân cần tăng cường nhận thức, có tầm nhìn dài hạn hơn trong sản xuất nông nghiệp

Người nông dân cần tích cực tham gia các khóa học tại chỗ về kỹ thuật canh tác, chuyển giao công nghệ của ngành nông nghiệp. Từ đó, nâng cao trình độ nguồn nhân lực nông nghiệp. Có ý thức về một nền nông nghiệp sạch, bền vững, hướng tới xuất khẩu. Theo dõi dự báo thị trường để điều chỉnh sản xuất cho phù hợp với cungcầu thị trường. Cần có tư duy dài hạn, tuyệt đối không phá vỡ quy hoạch của Nhà nước về phát triển nông nghiệp bền vững, không vội ồ ạt phá bỏ các cây trồng có thế mạnh để trồng một loại cây mới đang tạm thời có giá thành cao để tránh phá vỡ cân bằng cung – cầu thị trường .

d) Một số giải pháp cụ thể tiên tiến của thế giới mà Việt Nam nên học hỏi

Thái Lan, một quốc gia đi đầu thế giới trong xuất khẩu thực phẩm, trong đó bao gồm nguồn nguyên vật liệu thô dồi dào, lực lượng lao động có tay nghề và trình độ chuyên môn cao, tiêu chuẩn quản lý chất lượng kỹ càng. Thái Lan được xem là quốc gia đứng đầu trong sản xuất nông nghiệp ở một số lĩnh vực quan trọng trong cây trồng, vật nuôi, lâm nghiệp và thủy sản. Chính phủ Thái Lan đã tập trung vào công việc: cơ cấu lại ngành nghề phục vụ phát triển công nghiệp nông thôn, xem xét, đánh giá đầy đủ các nguồn tài nguyên, những truyền thống, tiềm năng trong các lĩnh vực sản xuất của từng vùng miền. Từ đó tập trung phát triển các ngành mũi nhọn cho từng vùng. Công nghiệp chê biến thực phẩm Thái Lan phát triển mạnh nhờ thực hiện một số chương trình hỗ trợ sau: Chương trình “Mỗi làng một sản phẩm” (One tambon, One product – OTOP), tức là mỗi làng làm ra một sản phẩm tiêu biểu, đặc trưng và có chất lượng cao, như vậy có thể tránh được việc cạnh trang chồng chéo giữa các vùng trong nước; thông qua chương trình “Quỹ làng” (Village Fund Program), mỗi làng nhân được một triệu baht từ Chính phủ cho dân làng vay mượn để phát triển kinh tế - xã hội. Trên thực tế đã có trên 75.000 ngôi làng ở Thái Lan được nhận khoản vay này...

KẾT LUẬN

Trên đây là những quan điểm, ý kiến mà chúng em đã cùng thống nhất. Từ việc tìm hiểu khái quát về Quy luật Cung – Cầu & Giá cả, từ những kiến thức thu nhận được từ thực tế đời sống, chúng em xin khẳng định câu nói “Được mùa thì mất giá, mất mùa thì được giá” hoàn toàn hợp lí, được minh chứng trên nhiều bình diện. Đây là khó khăn chung cần được giải quyết để góp phần phát triển ổn định và bền vững nền nông nghiệp nước nhà. Mong rằng những phương hướng mà nhóm đưa ra phần nào giúp ích được trong việc giải quyết vấn đề này. Mặt khác, chúng ta cũng cần nhìn nhận toàn diện hơn về vai trò của Nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề mang tính vĩ mô của nền kinh tế bởi sự phát triển của thị trường cũng phụ thuộc rất nhiều vào đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước, các cơ quan có thẩm quyền. Nói như vậy cũng không phải đặt toàn bộ trách nhiệm lên vai Nhà nước. Nền kinh tế muốn phát triển tất nhiên cần sự hợp tác, cố gắng của mọi nhân tố cấu thành. Trong quan hệ mua bán, trao đổi, mỗi chúng ta đã đang và sẽ tác động đến nền kinh tế. Việc trang bị kiến thức kinh tế là cần thiết, hữu ích đối với tất cả mọi người. Trong quá trình hoàn thiện bài tập, do vẫn còn nhiều về hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên không thể tránh khỏi những khiếm khuyết, kính mong sẽ nhận được sự nhận xét và đóng góp ý kiến từ phía các thầy cô trong tổ bộ môn để bài làm của chúng em thêm phần hoàn thiện.

Chúng em xin chân thành cảm ơn!

Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU

Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

You Might Also Like

0 nhận xét