Đánh giá quy định về các điều kiện để việc nuôi con nuôi hợp pháp theo quy định của Luật Nuôi con nuôi năm 2010
tháng 9 25, 2023
MỞ ĐẦU
Nuôi con nuôi là một hiện tượng xã hội phổ biến, đã xuất hiện và tồn tại từ lâu trong đời sống xã hội. Nuôi con nuôi là một vấn đề nhân đạo sâu sắc, thể hiện tình yêu thương, tinh thần trách nhiệm tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau giữa người với người, là biện pháp tích cực giúp đỡ trẻ em không nơi nương tựa có mái ấm gia đình, được chăm sóc và phát triển trong những điều kiện tốt nhất. Luật Nuôi con nuôi 2010 ra đời đã tạo cơ sở pháp lý để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của các cặp vợ chồng hiếm muộn trong nước muốn nhận con nuôi; bảo vệ quyền và lợi ích của cha mẹ nuôi, giúp họ ổn định tư tưởng và yên tâm trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc con nuôi như con đẻ.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của vấn đề nhận nuôi con nuôi, sau đây em xin trình bày về đề tài: “Đánh giá quy định về các điều kiện để việc nuôi con nuôi hợp pháp theo quy định của Luật Nuôi con nuôi năm 2010” để có một cái nhìn đẩy đủ hơn về điều kiện nhận nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật Việt Nam.
NỘI DUNG
I. Quy định của pháp luật về điều kiện nuôi con nuôi hợp pháp
1. Khái niệm và mục đích của việc nuôi con nuôi
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi 2010: “Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi.” Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi không có quan hệ huyết thống trực hệ với nhau.
Điều 2 Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định: “Việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình.” Đây là sự kế thừa các quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình 1986 và Luật Hôn nhân và Gia đình 2000.
Hành vi nuôi con nuôi không được vi phạm các điều cấm sau của luật: Lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục; bắt cóc, mua bán trẻ em; Giả mạo giấy tờ để giải quyết việc nuôi con nuôi; Phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi; Lợi dụng việc cho con nuôi để vi phạm pháp luật về dân số; Lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người thuộc dân tộc thiểu số để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước; Ông, bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con nuôi; Lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật, phong tục tập quán, đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Như vậy, để việc nuôi con nuôi là hợp pháp, trước tiên, việc nuôi con nuôi đó phải có mục đích phù hợp với quy định của Luật nuôi con nuôi 2010 và không vi phạm điều cấm của luật.
2. Điều kiện với người được nhận làm con nuôi
Điều 8 Luật nuôi con nuôi 2010 quy định các điều kiện của người được nhận làm con nuôi như sau:
- Trẻ em dưới 16 tuổi
- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;
- Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.
3. Điều kiện với người nhận nuôi con nuôi
Để được nhận con nuôi, về nguyên tắc, người nhận con nuôi phải đảm bảo có đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 14 Luật Nuôi con nuôi, cụ thể là:
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Nghĩa là người đó phải có đủ các điều kiện cần thiết để được công nhận là người thành niên, đủ năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam.
- Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên. Như vậy, tuổi tối thiểu của người nhận con nuôi phải là 20 tuổi, nếu xin nhận trẻ em sơ sinh làm con nuôi.
- Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở, bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi. Đây là điều kiện hết sức quan trọng và cần thiết để chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi phát triển tốt.
- Có tư cách đạo đức tốt.
Riêng với trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu ruột làm con nuôi thì được miễn các điều kiện thứ hai và thứ ba nêu trên, nghĩa là, không áp dụng quy định về độ tuổi, về điều kiện sức khỏe, kinh tế.
Đồng thời, tại khoản 2 Điều 14 Luật nuôi con nuôi cũng quy định các trường hợp không được nhận nuôi con nuôi, bao gồm:
- Người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
- Người đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh.
- Người đang chấp hành hình phạt tù.
- Người chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ. vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.
Đối với người nước ngoài xin con nuôi, Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định ngoài các điều kiện trên, còn phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật nơi người đó thường trú. Về nguyên tắc, người xin nhận con nuôi phải thường trú ở các nước là thành viên của Điều ước quốc tế hợp tác về nuôi con nuôi với Việt Nam và đáp ứng đủ các điều kiện nuôi con nuôi theo pháp luật hiện hành của Việt Nam cũng như pháp luật của nước nơi người đó cư trú.
4. Điều kiện về ý chí của chủ thể quan hệ nhận nuôi con nuôi
Về ý chí của người được nhận nuôi: Nếu người được nhận nuôi từ đủ 9 tuổi trở lên thì phải hỏi ý kiến của người đó.
Về ý chí của cha mẹ đẻ: Việc nhận nuôi phải có sự đồng ý của cha mẹ đẻ người được nhận nuôi. Cha mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con mình làm con nuôi người khác sau khi con đã được sinh ra ít nhất 15 ngày. Nếu một bên cha hoặc mẹ đẻ đã chết, hoặc mất tích, hoặc mất năng lực hành vi dân sự, hoặc không xác định được thì cần có sự đồng ý của bên còn lại.
Về ý chí của người giám hộ: Việc nhận nuôi phải có sự đồng ý của người giám hộ nếu cha và mẹ đẻ đều đã chết, hoặc mất tích, hoặc mất năng lực hành vi dân sự, hoặc không xác định được cha mẹ đẻ của người được nhận nuôi.
Về ý chí của người nhận nuôi: Người nhận nuôi phải tự nguyện nhận con nuôi, có ý chí phù hợp với mục đích của việc nhận con nuôi.
Ý chí đồng ý của chủ thể cho con nuôi phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực, không bị ép buộc, không bị đe dọa hay mua chuộc, không vụ lợi, không kèm theo yêu cầu trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác. Ý chí của chủ thể nhận con nuôi phải hoàn toàn tự nguyện, không phải do bị cưỡng ép, lừa dối, xuất phát từ động cơ, mục đích xấu xa như nhằm bóc lột sức lao động của con nuôi, xúi giục con nuôi phạm tội…
5. Điều kiện về hình thức
Để việc nhận nuôi con nuôi là hợp pháp thì việc nhận nuôi con nuôi phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và ghi vào sổ hộ tịch. Thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi, giao nhận con nuôi được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Về thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi, Điều 9 Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định:
- Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của người được giới thiệu làm con nuôi hoặc của người nhận con nuôi đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước.
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi thường trú của người được giới thiệu làm con nuôi quyết định việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
- Cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài đăng ký việc nuôi con nuôi của công dân Việt Nam tạm trú ở nước ngoài.
II. Đánh giá các quy định về các điều kiện để việc nuôi con nuôi hợp pháp theo quy định của Luật Nuôi con nuôi năm 2010.
1. Đánh giá quy định của luật về điều kiện với người được nhận làm con nuôi
a) Ưu điểm
Quy định của Luật Nuôi con nuôi 2010 về điều kiện với người được nhận làm con nuôi có nhiều điểm mới, tiến bộ so với Luật Hôn nhân và gia đình 2000, khắc phục được nhiều hạn chế trong quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2000.
Luật Nuôi con nuôi 2010 đã tăng độ tuổi của người được nhận làm con nuôi là trẻ em dưới 16 tuổi (độ tuổi Luật Hôn nhân và gia đình 2000 quy định là 15 tuổi trở xuống). Quy định về độ tuổi này phù hợp với Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em đã quy định trẻ em là người dưới 16 tuổi.
Quy định người được nhận nuôi là trẻ em dưới 16 tuổi xuất phát từ cơ sở trẻ em dưới 16 tuổi là người chưa có năng lực hành vi đầy đủ, chưa nhận thức được đầy đủ hành vi của mình, quan hệ nuôi con nuôi sẽ bảo đảm cho người con nuôi được cha mẹ nuôi chăm sóc. Hơn nữa, thực tế những người trên 16 tuổi đã có thể tự lập kiếm sống nuôi bản thân và thông thường, người nhận con nuôi cũng mong muốn được bảo trợ cho những em nhỏ, cho các em mái ấm gia đình.
Quy định về độ tuổi của người được nhận làm con nuôi như vậy là hợp lý, khuyến khích việc nhận trẻ em làm con nuôi, đồng bộ với các quy định khác của pháp luật, và phù hợp với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết và tham gia.
So với Luật Hôn nhân và gia đình 2000, Luật Nuôi con nuôi 2010 đã bỏ quy định: “Người trên mười lăm tuổi có thể được nhận làm con nuôi nếu là thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi của người già yếu cô đơn.” Việc bỏ quy định này là hợp lý, bởi lẽ quy định này không phù hợp với mục đích của việc nhận nuôi con nuôi là “vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình.” Điều này cũng phù hợp với xu thế chung của thế giới, đó là hầu hết các nước đều quy định người được nhận làm con nuôi phải là người vị thành niên.
Đồng thời so với Luật Hôn nhân và gia đình 2000, Luật Nuôi con nuôi 2010 đã bổ sung thêm quy định về độ tuổi của người được nhận nuôi là: Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu được cha dượng, mẹ kế, hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi. Trước khi Luật Nuôi con nuôi 2010 được ban hành, quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi cho thấy có nhiều trường hợp trẻ em trên 15 tuổi nhưng được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi để đoàn tụ gia đình đã không thể giải quyết được. Điều này làm ảnh hưởng nhất định đến quyền và lợi ích của trẻ em. Vì vậy Luật Nuôi con nuôi đã mở rộng đối tượng này đến trẻ dưới 18 tuổi tạo điều kiện cho trẻ được sống trong gia đình gốc của mình.
Quy định “Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai vợ chồng” được phát triển từ Luật Hôn nhân và gia đình 2000, bổ sung thêm từ “độc thân” để quy định thêm chặt chẽ. Quy định này nhằm đảm bảo về nơi ăn, chốn ở, sự hòa hợp và ổn định thống nhất trong cách sống cho người con nuôi. Quy định này cũng phù hợp với pháp luật các nước trên thế giới, đều quy định không được phép làm con nuôi hai lần, nhằm mục đích chống khả năng lạm dụng việc nuôi con nuôi để buôn bán trẻ em.
b) Hạn chế
Tuy Luật Nuôi con nuôi 2010 bỏ quy định “Người trên mười lăm tuổi có thể được nhận làm con nuôi nếu là thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi của người già yếu cô đơn” là phù hợp với lý luận và mục đích của việc nhận nuôi con nuôi, đồng thời phù hợp với xu thế chung của thế giới, nhưng như vậy cũng đồng thời làm mất đi quyền được nuôi dưỡng, chăm sóc đối trường hợp người từ đủ 16 tuổi trở lên nhưng bị tàn tật, bị mất năng lực hành vi dân sự cần được nhận nuôi để có người chăm sóc hoặc trường hợp người già yếu, cô đơn có nhu cầu nhận con nuôi để được chăm sóc.
Bên cạnh đó, Luật Nuôi con nuôi chưa quy định cụ thể về hoàn cảnh của trẻ em được nhận làm con nuôi. Việc chỉ quy định độ tuổi mà không kèm theo bất cứ điều kiện nào khác của người được cho làm con nuôi đã dẫn đến nhận thức rằng mọi trẻ em từ 16 tuổi trở xuống đều có thể được cho làm con nuôi. Điều này không phù hợp với bản chất của việc cho – nhận con nuôi là chỉ cho trẻ em làm con nuôi khi trẻ em đó không thể được chăm sóc, nuôi dưỡng trong gia đình ruột thịt. Quy định này dẫn đến hiện tượng lợi dụng việc cho – nhận con nuôi nhằm mục đích trục lợi như: nhằm vi phạm kế hoạch hóa gia đình, hay cho trẻ làm con nuôi người có công với cách mạng, người dân tộc thiểu số để hưởng chế độ chính sách của Nhà nước…
Mặt khác, quy định “Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai vợ chồng” có thể bị lạm dụng để thực hiện hành vi lạm dụng tình dục đối với trẻ em, đặc biệt là khi nam giới độc thân nhận trẻ em nữ làm con nuôi. Để phòng tránh việc này, pháp luật một số nước (như Malaysia, Singapore) quy định không cho phép người độc thân là nam giới nhận nuôi trẻ em là nữ giới, trừ trường hợp đặc biệt do tòa án quyết định. Trung Quốc cũng quy định đàn ông độc thân chỉ được nhận trẻ em gái làm con nuôi nếu hơn trẻ em đó từ 40 tuổi trở lên.
2. Đánh giá quy định của luật về điều kiện với người nhận con nuôi
a) Ưu điểm
Các quy định của Luật Nuôi con nuôi 2010 về điều kiện với người nhận con nuôi cụ thể, đầy đủ hơn, mang tính tổng quát hơn so với trước đây, trên cơ sở kế thừa từ Luật Hôn nhân và gia đình 2000.
Việc quy định điều kiện về năng lực hành vi dân sự của người nhận nuôi là cần thiết, nhằm bảo đảm cho người con nuôi có được một cuộc sống trọn vẹn, được chăm sóc, nuôi dưỡng… Nếu người nhận con nuôi không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi thì họ không thể tự nhận thức được trách nhiệm làm cha, làm mẹ của mình, thể hiện ý chí của mình một cách đúng đắn trong quyết định nhận con nuôi, và trong suốt quá trình nuôi dưỡng sẽ không thể bảo đảm cho người con nuôi có được cuộc sống bình thường, mục đích của việc nuôi con nuôi không đạt được.
Quy định người nhận con nuôi phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên là kế thừa từ Luật Hôn nhân và gia đình 2000. Đây là điều kiện cần thiết để cha mẹ nuôi có thể đảm đương các nghĩa vụ của cha mẹ đối với con. Về mặt sinh học, giữa hai thế hệ kế cận luôn có một khoảng cách tuổi tác mới bảo đảm được sự tôn trọng và khả năng nuôi dưỡng, giáo dục con cái. Đồng thời quy định này cũng nhằm tránh trường hợp người nhận nuôi con nuôi lạm dụng tình dục đối với con nuôi. Luật Nuôi con nuôi chỉ quy định khoảng cách tuổi giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi mà không quy định tuổi tối đa của người nhận con nuôi. Điều này khẳng định tinh thần của Luật là xuất phát trên cơ sở tấm lòng nhân ái và khả năng, điều kiện thực tế của người nhận nuôi con nuôi. Mục đích của việc nhận con nuôi là tạo mái ấm gia đình cho trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ được sống trong tình yêu thương, chăm sóc của cha mẹ nuôi chứ không phụ thuộc vào độ tuổi của cha mẹ nuôi.
Điều kiện có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở, bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi cũng được kế thừa từ Luật Hôn nhân và gia đình 2000. Đây là điều kiện hết sức quan trọng để bảo đảm cho người con nuôi, nhất là người con nuôi chưa thành niên được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục tốt, được sống trong một môi trường lành mạnh, thuận lợi cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ và đạo đức.
Tuy nhiên, Luật Nuôi con nuôi 2010 cũng quy định ngoại lệ đối điều kiện với người nhận con nuôi. Đó là trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi, thì được miễn các điều kiện về độ tuổi, sức khỏe, kinh tế. Chẳng hạn, trường hợp người nhận con nuôi là cha dượng/mẹ kế nhận con riêng của vợ/chồng; cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì tuổi chênh lệch của người nhận con nuôi so với con nuôi có thể ít hơn 20 và cũng không cần có đủ các điều kiện về kinh tế, chỗ ở… Đó là những quy định mang tính nhân văn, bảo đảm tối đa cơ hội để trẻ được nhận làm con nuôi trong quan hệ họ hàng hoặc đoàn tụ gia đình. Đây cũng là một trong các quan điểm quan trọng xuyên suốt trong quá trình hoàn thiện pháp luật nuôi con nuôi là ưu tiên trẻ được sống trong môi trường gia đình gốc.
Bên cạnh đó, so với Luật Hôn nhân và gia đình 2000, Luật Nuôi con nuôi đã bổ sung thêm một số trường hợp không được nhận con nuôi. Điều này là vô cùng phù hợp. Những người đã có hành vi như trường hợp mà Luật đưa ra thì không thể có đủ tư cách đạo đức để nuôi dạy con nuôi, vì bản thân họ đã xâm hại đến những người thân thiết, máu mủ của họ thì không thể là tấm gương cho người con nuôi noi theo, không có gì bảo đảm rằng họ sẽ đối xử tốt với người được nhận làm con nuôi. Quy định này nhằm bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được sống trong một môi trường lành mạnh, được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục tốt về thể chất và nhân cách.
b) Hạn chế
Tuy quy định về điều kiện với người nhận nuôi con nuôi của Luật Nuôi con nuôi 2010 cụ thể, tổng quát hơn, nhưng vẫn còn một số điểm chưa thật sự rõ ràng, cụ thể như sau:
Điểm c, khoản 1, Điều 14 Luật Nuôi con nuôi quy định người nhận con nuôi phải có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi. Tuy nhiên luật không quy định thế nào là có điều kiện về kinh tế. Chính vì vậy, mỗi địa phương lại áp dụng quy định này một cách khác nhau, tạo ra sự thiếu đồng bộ trên cả nước. Có nơi chỉ cần người nhận con nuôi chứng minh mình có việc làm là được. Song lại có nơi yều cầu người nhận con nuôi phải có thu nhập ở mức nhất định. Việc xác định chỗ ở như thế nào để bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con nuôi cũng rất khó khăn. Mặt khác, việc xác minh điều kiện nhận nuôi con nuôi cũng không dễ dàng vì người dân trình bày không đúng với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của mình. Do vậy, luật cần quy định cụ thể các điều kiện thực tế của người nhận nuôi con nuôi là gì để có cơ sở thống nhất khi xem xét công nhận việc nuôi con nuôi.
Đồng thời, luật cần quy định rõ những người mắc các bệnh hiểm nghèo có nguy cơ cao lây nhiễm sang người khác như HIV/AIDS, bệnh viêm gan, lao… có được nhận nuôi con nuôi hay không? Xét về lợi ích lâu dài của trẻ em được nhận nuôi, pháp luật cần quy định những người mắc các bệnh trên không được nhận nuôi con nuôi để đảm bảo sức khỏe của trẻ em. Pháp luật của một số nước như Trung Quốc cũng quy định cấm người mắc một số bệnh nguy hiểm không được nhận nuôi con nuôi.
Mặc dù việc Luật không giới hạn độ tuổi nhận con nuôi thể hiện tinh thần nhân ái, tăng thêm cơ hội trẻ em được nhận làm con nuôi. Tuy nhiên, việc nhận nuôi con nuôi là nhằm đem lại một gia đình cho trẻ, gia đình đó càng giống, càng tương tự với gia đình tự nhiên của trẻ thì càng tốt, vì vậy, nếu cặp vợ chồng đã lớn tuổi mà nhận trẻ em làm con nuôi thì thật không phù hợp. Khoảng cách quá lớn giữa hai thế hệ sẽ tạo ra sự khác biệt về tư tưởng, cách sống, cách nghĩ. Hơn nữa, khi tuổi tác đã quá cao thì khả năng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con nuôi sẽ giảm dần theo tuổi tác và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của trẻ được nhận nuôi. Vì vậy, để phù hợp với bản chất của việc nuôi con nuôi và pháp luật có tính khả thi, thì nên quy định hạn chế độ tuổi tối đa của người nhận nuôi con nuôi.
Mặt khác, khoản 3, Điều 14 Luật Nuôi con nuôi quy định trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, dì, chú, bác, cậu ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng quy định về khoảng cách độ tuổi và điều kiện sức khỏe, kinh tế, chỗ ở. Tuy nhiên Luật lại không quy định rõ vợ hoặc chồng của cô, dì, chú, bác, cậu ruột có được áp dụng quy định này không. Điều này gây khó khăn cho quá trình áp dụng của các cơ quan trong quá trình thực hiện.
3. Đánh giá quy định của luật về điều kiện ý chí của chủ thể quan hệ nhận nuôi con nuôi
a) Ưu điểm
Nhìn chung, các quy định của pháp luật về điều kiện ý chí của các chủ thể quan hệ nhận con nuôi phải dựa trên cơ sở thật sự tự nguyện nhằm đảm bảo đạt được mục đích của việc nhận con nuôi, đảm bảo lợi ích tốt nhất cho người được nhận làm con nuôi.
Luật quy định cha mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con mình làm con nuôi người khác sau khi con đã được sinh ra ít nhất là 15 ngày. Đây là quy định đảm bảo cho việc nuôi con nuôi đúng pháp luật, không trái pháp luật và đạo đức xã hội; tránh tình trạng thỏa thuận việc cho và nhận nuôi con nuôi giữa cha mẹ đẻ và người nhận nuôi từ trước khi đứa trẻ ra đời, nhằm đảm bảo quyền của trẻ em kể từ khi sinh ra phải được biết nguồn gốc của mình, biết cha mẹ đẻ của mình là ai và được cha mẹ mình chăm sóc.
Trường hợp nhận trẻ em từ 9 tuổi trở lên làm con nuôi còn phải được sự đồng ý của trẻ em đó. Quy định này kế thừa từ Luật Hôn nhân và Gia đình 2000, tương đồng với quy định của nhiều nước trên thế giới và công ước Lahay. Quy định này nhằm bảo đảm trẻ em được tự do bày tỏ ý kiến của mình và ý kiến của trẻ em phải được xem xét trong mọi vấn đề và thủ tục ảnh hưởng đến trẻ em, như đã được quy định tại điều 12, công ước QTE.
So với Luật Hôn nhân và gia đình 2000, quy định của Luật Nuôi con nuôi có nhiều điểm mới tiến bộ. Khoản 3 điều 21 quy định: “Sự đồng ý phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực, không bị ép buộc, không bị đe dọa hay mua chuộc, không vụ lợi…”. Với quy định này việc bảo đảm quyền trẻ em đã được coi trọng và đề cao.
b) Hạn chế
Theo quy định của Luật Nuôi con nuôi thì việc nhận nuôi con nuôi phải được sự đồng ý của cha, mẹ đẻ hoặc của người giám hộ của trẻ em được nhận làm con nuôi. Nhưng thực tế lại phát sinh một số trường hợp cho nhận con nuôi rất tùy tiện, như sau khi sinh con, cha mẹ đẻ cho con làm con nuôi dưới hình thức trao tay, giấy viết tay, giấy chứng sinh… mà không để lại địa chỉ, thậm chí để lại địa chỉ nhưng lại là địa chỉ giả. Khi tiến hành thủ tục đăng ký nuôi con nuôi, UBND cấp xã không thể liên hệ được với cha, mẹ đẻ để lấy ý kiến đồng ý theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, sự đồng ý của người giám hộ theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Luật Nuôi con nuôi 2010 là chưa chặt chẽ, chưa đảm bảo được lợi ích của trẻ em được giám hộ. Bởi vì, việc cho một đứa trẻ làm con nuôi cần được xem xét, cân nhắc đầy đủ mọi khía cạnh. Việc đưa trẻ ra khỏi gia đình ruột thịt của nó chỉ là biện pháp cuối cùng, khi đứa trẻ không thể có được sự chăm sóc, nuôi dưỡng trong gia đình họ hàng của nó. Vì vậy, việc cho đứa trẻ đó làm con nuôi cần có ý kiến của những người họ hàng thân thích của trẻ được giám hộ, như ông bà nội, ông bà ngoại, các anh, chị ruột, các cô, chú, bác ruột… Những người này có quyền thể hiện ý chí của mình về việc nhận nuôi dưỡng nó hoặc cho nó làm con nuôi.
4. Đánh giá quy định của luật về điều kiện hình thức
a) Ưu điểm
Luật Nuôi con nuôi đã có sự quy định về trình tự giải quyết việc nuôi con nuôi tiến bộ, tương đồng với quy định trong Công ước QTE, trên cơ sở nguyên tắc đảm bảo cho trẻ được sống trong gia đình gốc, hay ưu tiên cho trẻ được làm con nuôi trong nước.
So với quy định trước đây, Luật Nuôi con nuôi và Nghị định 19/2011/NĐ-CP quy định về hồ sơ của người nhận con nuôi đầy đủ và chặt chẽ hơn. Người nhận con nuôi phải nộp nhiều loại giấy tờ quan trọng mà trước đây không yêu cầu cụ thể như phiếu lý lịch tư pháp do Sở Tư pháp cấp, giấy khám sức khỏe, văn bản xác nhận hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế… Quy định về hồ sơ của người nhận nuôi con nuôi nhằm tăng cường độ bảo đảm về tình trạng nhân thân, về điều kiện của người xin nhận con nuôi theo hướng lựa chọn những cha mẹ nuôi có phẩm chất đạo đức tốt, có khả năng giáo dục con cái, có điều kiện thực tế về vật chất và sức khỏe để nhận con nuôi. Việc xác minh rõ ràng, kết hợp tư vấn về quyền và nghĩa vụ trong quan hệ nuôi con nuôi giúp việc xác lập quan hệ được tiến hành đúng đắn.
b) Hạn chế
Tuy nhiên, thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi đã bộc lộ một số điểm vướng mắc như sau:
Ở nước ta hiện nay, kiến thức pháp luật về nuôi con nuôi của người dân còn rất hạn chế, nhất là ở vùng núi, nông thôn. Do nhận thức đơn giản nên việc thực hiện thủ tục đối với trẻ em bị bỏ rơi thường rất sơ sài, đa số trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, người phát hiện không báo Công an, hoặc UBND cấp xã để lập biên bản xác nhận tình trạng bị bỏ rơi của trẻ em. Nhiều trường hợp người dân tự đem trẻ về nuôi mà không làm thủ tục. Do vậy, khi đăng ký khai sinh cho con hầu như không thực hiện được, vì lúc này việc xác định nguồn gốc và tình trạng trẻ em bị bỏ rơi là hết sức khó khăn và phức tạp.
Mặt khác, theo khoản 1 Điều 10 Nghị định 19/2011/NĐ-CP (thực hiện theo khoản 1 Điều 22 Luật Nuôi con nuôi), khi đăng ký nuôi con nuôi, cha mẹ nuôi, cha mẹ đẻ, người giám hộ hoặc đại diện cơ sở nuôi dưỡng và người được nhận làm con nuôi phải có mặt. Song với những trường hợp đang chấp hành hình phạt tù hoặc trường hợp ly hôn mà con sống với mẹ hoặc cha, người còn lại di chuyển nơi cư trú không liên lạc được nhưng khi đăng ký thì không thể có mặt tại UBND cấp xã để làm thủ tục, nên việc giải quyết đăng ký cho, nhận con nuôi không thực hiện được. Quy định như vậy không mang tính khả thi và khó thực hiện trong thực tế.
KẾT LUẬN
Nhận nuôi con nuôi và được làm con nuôi là quyền tự do của cá nhân, nhằm đáp ứng nhu cầu tự nhiên, thiết yếu của con người. Việc cho nhận con nuôi ngày càng tăng về quy mô và số lượng đã giúp nhiều trẻ em có cơ hội được nhận sự chăm sóc từ gia đình. Tuy nhiên việc cho nhận con nuôi ngày càng phát triển cũng đặt ra các vấn đề hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi nhằm đảm bảo tốt hơn mục đích chăm sóc, bảo vệ cũng như quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi. Thực tế cho thấy, các quy định của Luật Nuôi con nuôi về các điều kiện để việc nuôi con nuôi hợp pháp đã có nhiều điểm mới tiến bộ, tuy nhiên vẫn còn nhiều vướng mắc. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật về vấn đề này là một yêu cầu vô cùng cấp thiết để bảo vệ quyền lợi của người được nhận nuôi cũng như người nhận nuôi con nuôi.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Văn bản pháp luật:
1. Luật Hôn nhân và Gia đình 2014
2. Luật Nuôi con nuôi 2010
3. Luật Hôn nhân và Gia đình 2000
4. Nghị định 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi
5. Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình
* Giáo trình:
6. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2013
* Sách tham khảo:
7. Bộ môn Luật Hôn nhân và gia đình – Trường Đại học Luật Hà Nội, Hướng dẫn học tập – tìm hiểu Luật Hôn nhân gia đình, NXB Lao động, Hà Nội, 2015
8. Bộ Tư pháp – Viện Khoa học pháp lý, Đinh Thị Mai Phương (chủ biên), Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000, NXB Chính trị Quốc gia, 2004.
* Luận văn:
9. Nguyễn Thị Hải, Bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam, Hà Nội, 2011.
* Bài tạp chí:
10. ThS. Đỗ Thị Ngọc, Người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề về pháp luật và nuôi con nuôi, Hà Nội, 2011.
11. TS. Nguyễn Phương Lan, Một số vấn đề về điều kiện nuôi con nuôi, Tạp chí Luật học số tháng 3/2009.
* Website:
12. Phương Thảo, Một số bất cập trong luật Nuôi con nuôi
https://trangtinphapluat.com/blog/bai-viet-hay/hon-nhan-va-gia-dinh/mot-so-bat-cap-trong-luat-nuoi-con-nuoi/ (truy cập ngày 15/10/2020)
13. Sở Tư pháp Tỉnh Bình Dương - Phòng Hành chính Tư pháp, Một số khó khăn vướng mắc trong giải quyết đăng ký nuôi con nuôi trong nước.
https://stp.binhduong.gov.vn/hanhchinhtuphap/Lists/HoTich/DispForm.aspx?ID=67&ContentTypeId=0x01006B434E144EA34B09B66CBCE45AAE3E910003873EAAFF7A924087B0AF9E4B4DB99C (truy cập ngày 16/10/2020)
Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU
Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395
.png)
0 nhận xét