Tảo hôn - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp
tháng 9 23, 2023
MỞ ĐẦU
Chế định về hôn nhân và gia đình là một trong những chế định pháp luật quan trọng hàng đầu trong hệ thống pháp luật dân sự của Việt Nam, nhằm bảo vệ, phát huy những giá trị tốt đẹp về truyền thống đạo đức, văn hóa của dân tộc trong lĩnh vực này. Trong những chế định quan trọng được Luật Hôn nhân và Gia đình quy định, chế định về kết hôn nói chung và điều kiện về độ tuổi để kết hôn nói riêng được đặc biệt chú trọng. Tuy nhiên, trên thực tế, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, hành vi vi phạm pháp luật về độ tuổi kết hôn tối thiểu, hay còn gọi là “tảo hôn” vẫn còn diễn ra phổ biến tại nhiều khu vực. Trong bài tập lần này, nhóm chúng em muốn tìm hiểu sâu hơn về tình trạng tảo hôn trong thực tiễn đời sống, cũng như đề xuất giải pháp để góp phần giải quyết tình trạng này.
NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM
Khoản 8 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“Tảo hôn là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật”.
Để bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình, luật pháp Việt Nam đã quy định: tảo hôn là một trong những hành vi bị cấm (theo quy định tại điểm b, Khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014).
II. THỰC TRẠNG
1. Các quy định của pháp luật hiện nay về vấn đề tảo hôn
Cũng như hầu hết các quốc gia khác trên thế giới, nhà nước Việt Nam cũng có quy định rất cụ thể và rõ ràng về điều kiện để kết hôn trong các văn bản pháp luật, mà trực tiếp nhất là Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Theo đó, tại Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, một trong những điều kiện để nam, nữ có thể kết hôn với nhau là: “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, Nữ từ đủ 18 tuổi trở lên”. Sở dĩ phải quy định độ tuổi tối thiểu để kết hôn đối với nam, nữ là do xuất phát từ cơ sở khoa học, từ các nghiên cứu trong lĩnh vực y học, tâm sinh lý con người; đồng thời cũng trên cơ sở điều kiện kinh tế- xã hội, phong tục tập quán, đạo đức và truyền thống văn hóa của dân tộc; thêm vào đó, cũng là để nhằm thể hiện sự thống nhất và đồng bộ với các quy định khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đặc biệt là pháp luật dân sự.
Như vậy, căn cứ theo quy định của pháp luật về quy định độ tuổi tối thiểu để kết hôn, thì hành vi tảo hôn theo pháp luật Việt Nam được xác định là hành vi lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi theo quy định của pháp luật, cụ thể là nam chưa từ đủ 20 tuổi, nữ chưa từ đủ 18 tuổi. Theo khoản b, Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, tảo hôn là một trong những hành vi bị cấm nhằm bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình của Việt Nam.
Như vây, hành vi tảo hôn là một hành vi vi phạm pháp luật, vì thế, sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý. Theo quy định của pháp luật hiện nay, các hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn, tùy theo mức độ vi phạm có thể bị xử lý hành chính hoặc xử lý hình sự.
Về xử lý hành chính: Điều 47 Nghị định 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã quy định: “Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức lấy vợ, lấy chồng cho người chưa đủ tuổi kết hôn; Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đủ tuổi kết hôn mặc dù đã có quyết định của Tòa án nhân dân buộc chấm dứt quan hệ đó”.
Về xử lý hình sự: Điều 183 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:
Người nào tổ chức việc lấy vợ, lấy chồng cho những người chưa đến tuổi kết hôn, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.
2. Tình trạng tảo hôn trong thực tiễn đời sống xã hội:
Mặc dù tảo hôn là hành vi bị nghiêm cấm theo luật định nhưng hành vi vi phạm pháp luật này vẫn tiếp tục tồn tại phổ biến nhiều địa phương khác nhau.
Đây là một trong những hủ tục tồn tại đặc biệt là ở vùng dân tộc thiểu số (DTTS) nước ta, là một trong những lực cản đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ xã hội và sự phát triển bền vững của vùng dân tộc thiểu số. Tất nhiên, tình trạng tảo hôn giữa các vùng miền, giữa các dân tộc là không giống nhau, thế nhưng nhìn chung, nó vẫn là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên xảy ra với một tỉ lệ lớn ở các vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, những vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.
Theo kết quả điều tra thực trạng kinh tế-xã hội (KT-XH) 53 dân tộc thiểu số năm 2015 cho thấy tỷ lệ tảo hôn chung của 53 DTTS là 26,6%, trong đó tỷ lệ tảo hôn cao nhất thuộc các dân tộc: Mông 59,7%; Xinh Mun 56,3%, La Ha 52,7%. Gia Rai 42%; Raglay 38,3%; Bru - Vân Kiều 38.9%,... Trong đó 40/53 DTTS có tỷ lệ này là trên 20%, trong đó có 13 DTTS có tỷ lệ tảo hôn từ 40-50% trở lên; 6 DTTS có tỷ lệ tảo hôn từ 50-60% trở lên.
Xét theo địa bàn cư trú thì vùng trung du, miền núi phía Bắc (đặc biệt là vùng Tây Bắc) và Tây Nguyên có tỷ lệ tảo hôn cao hơn so với các vùng khác: Miền núi phía Bắc 18,9%; Tây Nguyên 15,8%; Đồng bằng sông Hồng 7,9% và Đông Nam bộ 8,1%. Các tỉnh có tỷ lệ tảo hôn cao nhất trong cả nước gồm: Lai Châu, Hà Giang, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Cao Bằng, Bắc Kạn, Kon Tum, Gia Lai,…
Xét theo giới tính và nhóm tuổi thì tỷ lệ tảo hôn, kết hôn sớm của cả nam và nữ giới ở nhóm tuổi tuổi 15 đến 19 tuổi đều có xu hướng gia tăng, từ 2,4% đến 8,4% năm 2011 đến 3,1% và 11,2% năm 2013. Ở nhóm tuổi dưới 18, phụ nữ DTTS có xu hướng kết hôn sớm hơn và có tỷ lệ tảo hôn cao hơn gấp 3 lần so với nam DTTS (nữ DTTS 15,8%, nam DTTS 5,8%). Tỷ lệ tảo hôn ở nam giới các DTTS cao xấp xỉ 6 lần so với nam giới dân tộc Kinh và gấp 3 lần so với tỷ lệ chung của cả nước (tỷ lệ tương ứng lần lượt là 18,0% so với 3,3% và 5,8%). Xét theo dân tộc thì các DTTS có tỷ lệ tảo hôn cao gấp 6 lần so với dân tộc Kinh và gấp gần 3,5 lần so với tỷ lệ chung của cả nước; trong đó 25/53 DTTS có tỷ lệ tảo hôn trên 10%. Các dân tộc có tỷ lệ tảo hôn cao tập trung chủ yếu ở các tỉnh vùng miền núi phía Bắc và Tây Nguyên…
Trước tình hình về tảo hôn vùng DTTS vẫn còn phổ biến, gây ra những hậu quả nặng nề, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe bà mẹ, trẻ em, làm suy giảm nghiêm trọng chất lượng dân số,… gây ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội, vi phạm pháp luật về hôn nhân, ảnh hưởng xấu đến cộng đồng, ngày 14/4/2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 498/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2015-2025 nhằm nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật về hôn nhân và gia đình, góp phần giải quyết tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết, nâng cao chất lượng dân số và nguồn nhân lực ở vùng DTTS.
Qua 5 năm thực hiện, Đề án bước đầu đã đạt được một số kết quả nhất định. Thông qua các hoạt động của Đề án, đồng bào DTTS đã được tuyên truyền sâu rộng hơn về Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng chống bạo lực gia đình,… Điều đó phần nào đã cải thiện và nâng cao nhận thức về nạn tảo hôn. Một số phong tục, tập quán lạc hâu ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng tảo hôn đã dần được hủy bỏ. Việc triển khai xây dựng mô hình can thiệp đối với một số DTTS ở khu vực miền núi phía Bắc, duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, nơi có tỷ lệ tảo hôn và hôn nhân cận huyết cao đã góp phần thực hiện có hiệu quả việc tuyên truyền, phổ biến, vận động đồng bào thực hiện chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình.[1]
________________________________________
[1] https://moet.gov.vn/giaoducquocdan/giao-duc-dan-toc/Pages/tin-tuc.aspx?ItemID=5773
III. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN TÌNH TRẠNG TẢO HÔN VÀ HẬU QUẢ
Vấn nạn tảo hôn bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân như:
Thứ nhất, ảnh hưởng bởi các yếu tố về phong tục tập quán và lối sống:
Đối với đồng bào dân tộc thiểu số, việc kết hôn chủ yếu được thực hiện theo những hủ tục lạc hậu đã tồn tại lâu đời và ăn sâu vào đời sống thường nhật như: việc lấy vợ, lấy chồng mà chỉ cần sự đồng ý của những người đứng đầu trong làng hoặc của cha mẹ hai bên nam nữ và sự chứng kiến của gia đình, họ hàng, làng xóm. Quan niệm cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy; hay những tục lệ như tục lệ bắt vợ, tục “nối dây”. Việc cưỡng ép hôn nhân và các hành vi vi phạm pháp luật khác về hôn nhân và gia đinh khác vẫn còn tồn tại phổ biến. Hành vi tảo hôn cũng không phải là ngoại lệ.
Ở những vùng miền núi này, nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp mang nặng tính mùa vụ phổ biến. Từ đó, dẫn tới tình trạng thiếu việc làm trong giới trẻ phổ biến, nhiều người trẻ tại đây có nhiều thời gian nhàn rỗi. Từ đó, họ yêu sớm và kết hôn sớm.
Không chỉ vậy, vùng đồng bào dân tộc thiểu số có trình độ dân trí thấp hơn so với trung bình cả nước. Nhận thức và ý thức pháp luật của người dân nơi đây còn nhiều hạn chế, từ đó đã tác động làm gia tăng tình trạng tảo hôn.
Tuy nhiên, không chỉ xảy ra ở các đồng bào dân tộc thiểu số, nạn tảo hôn còn xuất hiện ở cả các vùng thành thị - nơi có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển hơn về nhiều mặt.
Nếu như nguyên nhân chủ yếu để xảy ra tảo hôn ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số là trình độ nhận thức thấp, ảnh hưởng của tập tục lạc hậu…, thì ở các vùng đô thị không hẳn như vậy. Thực tế ở các vùng đô thị, trẻ vị thành niên với nhận thức chưa đầy đủ dễ bị sa vào những tệ nạn, không làm chủ được bản thân cùng với việc kiến thức hạn hẹp về vấn đề tình dục gây nên những hậu quả đáng tiếc. Những trường hợp thường thấy là “cưới chạy bầu”, “bác sĩ bảo cưới”... đáng buồn thay lại rơi vào đa số những bạn trẻ chưa đủ tuổi kết hôn. Vậy nên có thể nói rằng tảo hôn không chỉ là một tập tục ở đồng bào các dân tộc thiểu số mà đáng quan ngại hơn là tảo hôn trong nền văn minh đô thị, tảo hôn do thiếu kiến thức, kĩ năng sống và vấn đề giáo dục giới tính chưa được quan tâm đúng mức.
Có thể thấy rằng, dù ở nông thôn hay thành thị thì nguyên nhân của tảo hôn có thể đánh giá chung là xuất phát từ nhận thức hạn hẹp, kiến thức pháp luật và kỹ năng sống của nhiều người trẻ chưa toàn diện và sâu sắc.
Thứ hai, các chế tài của pháp luật chưa đủ mạnh để ngăn ngừa, răn đe tình trạng tảo hôn.
Theo quy định của pháp luật hiện nay, hành vi tảo hôn, tùy theo tính chất và mức độ của hành vi vi phạm, có thể bị xử lý hành chính hoặc xử lý hình sự.
Đối với xử lý hành chính, thì theo quy định tại Điều 47, Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã và Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ về xử phạt về hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn: “Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức lấy vợ, lấy chồng cho người chưa đủ tuổi kết hôn. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đủ tuổi kết hôn mặc dù đã có quyết định của Tòa án nhân dân buộc chấm dứt quan hệ đó”.
Có thể nhận thấy, mức phạt này đối với những cặp nam nữ có hành vi tảo hôn ở khu vực thành thị là không đủ sức răn đe. Lý do là, so sánh với mức sống của dân cư khu vực đô thị hiện nay cũng như mức lương cơ sở hiện tại là 1,6 triệu đồng/tháng, thời điểm thực hiện từ ngày 01/7/2020, theo Nghị quyết số 86/2019/QH14 ngày 12 tháng 11 năm 2019. Từ đó, có thể thấy rằng mức xử phạt hành chính như trên là không phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội ở các thành phố hiện nay, làm giảm tính răn đe đối hành vi này. Việc biết rõ nhưng vẫn cố tình vi phạm cũng bắt nguồn từ nguyên nhân này. Tuy nhiên, đối với những cặp nam nữ sinh sống ở những vùng kinh tế khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, thì số tiền trên lại khá cao đối với thu nhập bình quân và mức sống của họ. Do đó, nhiều người vi phạm lại không có khả năng nộp phạt, trong khi chính quyền địa phương cũng gặp khó khăn trong việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt theo quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Do đó, trên thực tế, chế tài đối với hành vi này, về mặt xử lý hành chính, đều chưa thực sự đạt được mục đích giáo dục, răn đe và ngăn ngừa hành vi tảo hôn tiếp tục xảy ra.
Đối với xử lý hình sự: Điều 183 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:
“Người nào tổ chức việc lấy vợ, lấy chồng cho những người chưa đến tuổi kết hôn, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.”
Mặc dù nhà nước ta đã hình sự hóa hành vi tảo hôn, và coi đây là một hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội và quy định nó trong Luật Hình sự, nhưng khung hình phạt cao nhất đối với hành vi này hiện nay cũng chỉ là 02 năm, tức là thuộc vào nhóm tội phạm ít nghiêm trọng theo quy định tại Điều 9 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Khung hình phạt này, theo quan điểm của chúng em, là chưa thực sự thỏa đáng và chưa tương xứng với mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi này. Từ những nghiên cứu nêu trên về hậu quả xấu tác động đến mọi mặt xã hội của tảo hôn, có thể khẳng định cần có chế tài xử lý hình sự mạnh hơn nữa, không chỉ trực tiếp xử lí người vi phạm mà còn phải mang tính răn đe với tất cả mọi người.
Thứ ba, thiếu sự định hướng, giáo dục của gia đình và xã hội về thực trạng và những tác động tiêu cực của tảo hôn đối với trẻ vị thành niên:
Nhân cách mỗi người có sự ảnh hưởng rất lớn bởi môi trường giáo dục, mà trước tiên là sự giáo dục của gia đình. Một số gia đình quá tập trung tới xây dựng kinh tế gia đình, không quan tâm đến sự phát triển tâm lý cũng như thể chất của con em mình, lại có trường hợp một số gia đình bố mẹ ly hôn, mâu thuẫn cãi vã, từ đó tạo tâm lý chán chường, bất cần buông thả cho nhiều bạn trẻ. Bên cạnh đó, công tác quản lý học sinh tại các trường Trung học phổ thông, Phổ thông dân tộc nội trú giữa nhà trường và gia đình chưa chặt chẽ; sự phát triển của công nghệ thông tin, mạng xã hội, sự du nhập của văn hóa ngoại lai, lối sống thử, thiếu kinh nghiệm giới tính…đã ảnh hưởng trực tiếp đến học sinh, nên xảy ra những trường hợp mang thai ngoài ý muốn phải nghỉ học, dẫn đến tảo hôn.
Xảy ra tình trạng tảo hôn, nhà nước và xã hội cũng có một phần trách nhiệm. Về phía nhà nước, ban hành đạo luật cấm tảo hôn nhưng phải đưa luật đi sâu vào cuộc sống qua công tác tuyên truyền. Thực tế hiện nay, việc tuyên truyền pháp luật về tảo hôn chưa được coi trọng. Ít người biết và hiểu sâu sắc quy định của pháp luật về vấn đề này. Đặc biệt ở vùng sâu vùng xa, khả năng tiếp cận thông tin kém thì vi phạm do thiếu kiến thức pháp luật diễn ra rất phổ biến. Đồng thời, cũng cần chỉ ra một mặt tiêu cực của xã hội là bệnh thành tích trong giáo dục. Mải mê chạy theo điểm số, nhồi nhét kiến thức hàn lâm sách vở vào đầu học sinh mà “quên mất” phải giáo dục cho các em kĩ năng sống, cách tiếp cận với những luồng văn hóa, lối sống mới, không dạy các em cách bảo vệ chính bản thân mình khỏi nguy cơ rơi vào tình trạng tảo hôn.
Để nhìn nhân vấn đề sâu sắc hơn, chúng ta cũng cần nhìn nhận tới những hậu quả do tảo hôn mang lại:
Về sức khỏe: xét trên phương diện sinh lí, việc kết hôn và quan hệ tình dục khi cơ thể chưa phát triển toàn diện dẫn đến nhiều hệ lụy sau này. Nguy hiểm hơn là vấn đề sinh sản. Việc sinh con sớm (người mẹ <18 tuổi) gây nhiều nguy hiểm cho cả sản phụ và đứa con.
Việc chăm sóc tiền sản không tốt do thiếu hụt kinh nghiệm có thể gây ra nhiều tình trạng nguy hiểm đến sức khỏe của người mẹ và thai nhi. Thêm vào đó, chưa trưởng thành hoàn toàn về mặt thể chất dẫn đến cơ thể không đủ khỏe mạnh trong các tháng thai kỳ, gây ảnh hưởng xấu đến mẹ và con, ví dụ như người mẹ dễ bị thiếu máu, cao huyết áp, tiền sản giật cao…Mang thai sớm cũng có ảnh hưởng xấu đến đứa trẻ: Theo thống kê cho thấy thai nhi chết lưu trước khi chào đời chiếm tới hơn 50% trong tổng số các trường hợp tử vong sơ sinh, nguy cơ bị chết con khi sinh của những bà mẹ 15-19 tuổi lớn hơn 80% so với những người sinh con ngoài 20 tuổi. Không chỉ vậy, trẻ còn dễ bị sinh non, thiếu cân, thiếu dưỡng chất.
Thứ hai, là những hậu quả về mặt tâm lí – xã hội. Việc kết hôn ở cái tuổi “ăn không no, lo không tới”, phải gánh vác công việc gia định từ khi còn quá trẻ khiến cho những cuộc hôn nhân có lẽ sẽ chẳng được bền lâu. Những cuộc cãi vã do vấn đề tài chính, vấn đề chăm sóc và giáo dục con cái rất dễ dẫn đến li hôn. Thậm chí, mối quan hệ vợ chồng không có sự bảo đảm của pháp luật còn mong manh hơn rất nhiều. Điều này vô hình chung ảnh hưởng lớn đến sự ổn định bền vững của xã hội, nếu không muốn nói là làm mất ý nghĩa thiêng liêng của hôn nhân.
IV. GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ TẢO HÔN
1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Mặc dù tảo hôn là hành vi bị nghiêm cấm theo luật định nhưng hành vi vi phạm pháp luật này vẫn chưa có dấu hiệu giảm về số lượng, thậm chí thời gian qua có chiều hướng gia tăng.
Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 và Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 quy định mức xử phạt vi phạm hành chính còn chưa phù hợp với thực tế, dẫn đến việc thi hành chưa hiệu quả. Như đã khẳng định ở trên, các trường hợp tảo hôn tại các tỉnh miền núi, vùng dân tộc thiểu số thì mức xử phạt này là quá cao, dẫn tới trường hợp chủ thể vi phạm không có khả năng thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Trong khi đó, tại khu vực thành thị, như đã phân tích ở trên thì chế tài đưa ra chưa đủ mạnh, không đủ tính răn đe so với mức sống của dân cư khu vực thành thị nên việc xử phạt không đạt được hiệu quả như mong muốn.
Do vậy, cần có những quy định, hướng dẫn về mức xử phạt hành chính đối với tảo hôn, có thể bằng cách điều chỉnh mức phạt hành chính phù hợp với mức sống của từng khu vực, từng vùng miền để quy định này vừa đảm bảo việc xử phạt được khả thi trong thực tế, vừa đáp ứng yêu cầu mục đích xử phạt là răn đe, qua đó giảm thiểu tình trạng tảo hôn một cách có hiệu quả trong đời sống. Vì tình hình kinh tế - xã hội ở mỗi địa phương có sự khác nhau nên vấn đề xử phạt hành vi tảo hôn có thể giao cho chính quyền địa phương có thẩm quyền. Trên cơ sở nắm rõ tình hình thực tế địa bàn mình quản lí về mọi mặt (phong tục tập quán, kinh tế, xã hội...) chính quyền địa phương có thẩm quyền sẽ đưa ra mức phạt hợp lí theo đúng tinh thần của pháp luật.
Trong trường hợp kết hôn trước tuổi theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và Thông tư liên tịch số 01/2016/TTL-TANDTC-VKSNDTC, trên cơ sở yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định tại Điều 10 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 tùy từng trường hợp mà Tòa án sẽ có quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật, công nhận quan hệ hôn nhân trong trường hợp tại thời điểm Tòa án giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà cả hai bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật HN&GĐ 2014 và hai bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân, hoặc giải quyết ly hôn theo thủ tục chung.
Đối với trường hợp không tiến hành đăng ký kết hôn, theo quy định tại Khoản 4, điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 6/1/2016: “Trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn (không phân biệt có vi phạm điều kiện kết hôn hay không) và có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý, giải quyết và áp dụng Điều 9 và Điều 14 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 tuyên bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa họ…”. Theo đó, việc kết hôn không được đăng ký theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 sẽ không có giá trị pháp lý, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Trong khi đó, các trường hợp tảo hôn trên địa bàn các tỉnh miền núi phía Bắc chủ yếu được tổ chức theo phong tục địa phương mà không tiến hành đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, trong quy định về xử phạt hành chính về tảo hôn, việc xử phạt vi phạm hành chính chỉ áp dụng đối với người tổ chức tảo hôn, người trực tiếp có hành vi tảo hôn chỉ có thể bị phạt tiền trong trường hợp cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đủ tuổi kết hôn mặc dù đã có quyết định của Tòa án nhân dân buộc chấm dứt quan hệ đó (theo Khoản 2- Điều 47 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014). Việc thực hiện xử lý đối với các trường hợp tảo hôn vẫn cần có những biện pháp phù hợp mang tính khả thi hơn. Đối với những trường hợp tảo hôn nhưng đến khi hai bên nam, nữ đủ tuổi mới đăng ký kết hôn, cần có biện pháp xử lý thích đáng, không tiếp tay cho những hành vi trái pháp luật này. Cần phải có các quy định cụ thể về việc xử lý hành chính đối với các trường hợp tảo hôn mà không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nhằm tăng cường tính răn đe của pháp luật trong việc giảm thiểu tình trạng tảo hôn; đồng thời đảm bảo quyền lợi chính đáng của hai bên trong quan hệ này cũng như con chung.
2. Những giải pháp khác:
Thứ nhất, xây dựng một hệ thống đội ngũ nhân lực chuyên nghiệp để trực tiếp ngăn chặn tình trạng tảo hôn tại các vùng, khu vực xảy ra tình trạng này phổ biến:
Hiện nay, ý thức về pháp luật của đồng bào vùng cao cũng đã có những sự cải thiện đáng kể, nhưng nhìn chung còn thấp. Đội ngũ trợ giúp pháp lý tại các khu vực này ngày càng phát huy hiệu quả trong việc tuyên truyền đường lối, chính sách pháp luật của nhà nước đến với những người dân chưa có điều kiện tiếp cận thông tin. Tận dụng lợi thế này, chúng ta hoàn toàn có thể hướng đến giải pháp mở các lớp đào tạo ngắn hạn những kiến thức pháp luật về hôn nhân và gia đình, từ đó trang bị thêm cho đội ngũ kể trên những tư liệu để tuyên truyền, chỉ dẫn cho đồng bào miền núi, tiến tới thành lập một cơ quan, hoặc một tổ chức phi lợi nhuận thuộc sự quán lý của nhà nước.
Hệ thống này sẽ bắt nguồn từ chỉ đạo của Nhà nước xuống các tuyên truyền viên pháp lý - họ sẽ thành lập một đội ngũ chuyên viên pháp lý về hôn nhân và gia đình và được cử tới các vùng miền. Nhiệm vụ của đội ngũ này là tổ chức các khóa tập huấn thường niên cho lực lượng tham gia ở các vùng miền để từ đó, các tổ chức đoàn thể, cán bộ xã, có thể truyền đạt tới người dân những kiến thức pháp lý cơ bản nhất về hôn nhân và gia đình, trong đó có vấn đề tảo hôn.
Cách làm này sẽ có tác động lớn trong việc giảm thiểu dần những vụ tảo hôn xảy ra dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đội ngũ giám sát. Cùng với đó, ý thức về độ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật cũng sẽ được củng cố đối với người dân và vấn đề hoàn toàn có thể được giải quyết một cách có hệ thống hơn, thay vì diễn ra nhỏ lẻ qua các buổi tuyên truyền ngắn hạn.
Thứ hai, cần đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí của người dân vùng núi, vùng dân tộc thiểu số:
Đây là giải pháp mang tính dài hơi trong công cuộc hạn chế tối đa nạn tảo hôn nói chung. Vốn dĩ, kết quả của việc tảo hôn đến từ hành động bộc phát của thanh thiếu niên và nhận thức còn hạn chế về luật pháp. Trong đó, cái nghèo là một nhân tố có tác động sâu sắc đến vấn đề này do sự thiếu hụt kinh phí gia đình khiến các thanh thiếu niên thường rơi vào tình thế thiếu điều kiện học tập, dẫn đến trình độ học vấn không cao và những quyết định họ đưa ra không mang tính lý trí cao. Hơn nữa, khi không có hiểu biết về độ tuổi kết hôn theo luật định, khi xảy ra trường hợp có thai ngoài ý muốn, việc kết hôn sớm gần như không thể tránh khỏi.
Chính vì vậy, Chính phủ cùng với chính quyền địa phương cần có thêm những động thái quyết liệt hơn trong công tác xóa đói giảm nghèo cho đồng bào miền núi.
Nhìn một cách có hệ thống, ta có thể hiểu rằng sự đời sống nhân dân miền núi được nâng cao cũng đồng nghĩa với việc điều kiện học tập, điều kiện tiếp xúc với thông tin đại chúng sẽ được cải thiện. Từ đó, hiểu biết của người dân cũng sẽ tốt hơn đây chính là cơ hội để dần dần xóa bỏ được tục tảo hôn đã diễn ra lâu năm trên những miền đất vùng cao.
Thứ ba, xây dựng cơ chế gắn trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền cơ sở về trách nhiệm quản lý, ngăn chặn hành vi tảo hôn trên địa bàn của mình:
Nâng cao trách nhiệm của chính quyền cơ sở thông qua các phiên họp giao ban thường kỳ, các buổi tập huấn tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để qua đó chính quyền cơ sở nhận thức rõ được trách nhiệm, nhận thức được trách nhiệm, tầm quan trọng của việc loại trừ nạn tảo hôn. Nhằm tăng hiệu quả trong việc xử lý các trường hợp vi phạm, cần có những chế tài xử lý đối với trường hợp cán bộ, công chức mặc dù biết có hành vi tảo hôn nhưng không tiến hành xử phạt, tiếp tay cho các đối tượng vi phạm, tiến hành đăng ký kết hôn cho các trường hợp vi phạm. Đặc biệt, cần phải có các biện pháp xử lý nghiêm đối với những trường hợp cán bộ, lãnh đạo hoặc gia đình cán bộ để xảy ra tình trạng tảo hôn để làm gương cho người dân địa phương. Có biện pháp thúc đẩy các cấp chính quyền có chức năng tăng cường công tác rà soát, quản lý hộ tịch, từ đó phát hiện những trường hợp tảo hôn, không để xảy ra các trường hợp chung sống như vợ chồng trái pháp luật, đến khi đủ điều kiện kết hôn mới tiến hành đăng ký kết hôn.
KẾT LUẬN
Như vậy, có thể khẳng định, tảo hôn vẫn còn tồn tại khá phổ biến. Khung pháp lý và các biện pháp nhằm ngăn chặn hành vi này đã bước đầu phát huy được hiệu quả đáng ghi nhận. Do đó, trong tương lai, cần tiếp tục phát huy những mô hình hiện có, đồng thời tích cực tìm kiếm những biện pháp mới để nhằm hạn chế tối đa tình trạng này trong tương lai.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Hệ thống văn bản pháp luật
1. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), “Luật hôn nhân và gia đình”
B. Tài liệu tham khảo
1. Trần Đức Mạnh (2019), Thực tiễn thực hiện pháp luật về điều kiện tuổi kết hôn và giải pháp hạn chế nạn tảo hôn tại một số tỉnh miền núi phía Bắc, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học luật Hà Nội.
2. Cà Bình Minh (2018), Thực trạng vấn đề tảo hôn và kết hôn cận huyết thống trên địa àn huyện Mường La, tỉnh Sơn La, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội
Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU
Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395
.png)
0 nhận xét