Quy định của pháp luật về hợp đồng hợp tác và thực tiễn áp dụng

tháng 9 23, 2023

 

MỞ ĐẦU

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay, hợp tác là một xu thế tất yếu để tăng cường khả năng của mỗi chủ thể, tạo nên tiềm lực tốt hơn để cùng sản xuất, kinh doanh. Chính vì vậy, hợp đồng hợp tác ngày càng đóng vai trò quan trọng, là một trong những cách thức thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, tận dụng nguồn lực xã hội. Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS 2015) lần đầu tiên quy định hợp đồng hợp tác với tư cách là một hợp đồng dân sự thông dụng nhằm điều chỉnh các quan hệ hợp tác dưới góc độ hợp đồng. Nhận thấy được tầm quan trọng của hợp đồng hợp tác, sau đây em xin được trình bày về đề tài: “Quy định của pháp luật về hợp đồng hợp tác và thực tiễn áp dụng” để có được cái nhìn tổng quan hơn về vấn đề này.

NỘI DUNG

I. Một số vấn đề lý luận về hợp đồng hợp tác

1. Khái niệm hợp đồng hợp tác

Hợp đồng hợp tác là sự thỏa thuận giữa các cá nhân, pháp nhân về việc cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm. 

Hợp đồng hợp tác ra đời trên cơ sở thỏa thuận của các bên. Giống như các hợp đồng dân sự khác, hợp đồng hợp tác là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên tham gia. Điểm đặc trưng trong hợp đồng hợp tác là quyền và nghĩa vụ của các bên không đối lập nhau. Các chủ thể tham gia hợp đồng hợp tác thường có quyền, nghĩa vụ như nhau.

Mục đích của hợp đồng hợp tác là cùng thực hiện công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm. Quá trình thực hiện công việc, chia sẻ lợi ích, chịu trách nhiệm đối với các thiệt hại phát sinh trong quá trình thực hiện công việc tuân thủ theo nguyên tắc các bên thỏa thuận.

2. Đặc điểm hợp đồng hợp tác

Hợp đồng hợp tác là hợp đồng đa phương. Số lượng chủ thể trong từng hợp đồng không giới hạn, chủ thể của hợp đồng có thể bao gồm hai hoặc nhiều nhà đầu tư cùng có quan hệ hợp tác kinh doanh với nhau.

Hợp đồng hợp tác là hợp đồng song vụ, các bên trong hợp đồng đều có quyền và nghĩa vụ với nhau. Quyền và nghĩa vụ của mỗi bên phát sinh theo thỏa thuận và do pháp luật quy định.

Ngoài ra, hợp đồng hợp tác là hợp đồng không có đền bù, bởi sau khi giao kết hợp đồng, các bên phải đóng góp tài sản để thực hiện công việc thỏa thuận và trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu thu được lợi nhuận sẽ chia cho các thành viên theo thỏa thuận. Ngược lại, nếu thua lỗ, các thành viên đều phải gánh chịu theo phần đóng góp tài sản của mình.

3. Đối tượng hợp đồng hợp tác

Đối tượng của hợp đồng hợp tác là công việc hợp tác. Công việc hợp tác để trở thành đối tượng của hợp đồng hợp tác phải đáp ứng các điều kiện sau đây:

- Công việc hợp tác là công việc có thể thực hiện được.

- Công việc hợp tác không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.

- Công việc hợp tác phải đem lại kết quả là các lợi ích vật chất.

4. Chủ thể hợp đồng hợp tác

Chủ thể tham gia hợp đồng hợp tác là các cá nhân, pháp nhân cùng đóng góp tài sản, công sức. Pháp luật cho phép mọi cá nhân, pháp nhân thỏa mãn các điều kiện luật định đều được tham gia vào hợp đồng hợp tác. Các chủ thể có thể đóng góp tài sản hoặc công sức hoặc cả hai nhằm cùng thực hiện công việc, cùng hưởng lợi ích từ kết quả công việc đem lại. 

II. Quy định của pháp luật về hợp đồng hợp tác

1. Hình thức của hợp đồng hợp tác

Khoản 2 Điều 504 BLDS 2015 quy định: “Hợp đồng hợp tác phải được lập thành văn bản.” Pháp luật ghi nhận hình thức của hợp đồng hợp tác phải là văn bản. So với Điều 111 BLDS 2005, hình thức của hợp đồng hợp tác được ghi nhận trong BLDS 2015 bớt khắt khe, cứng nhắc hơn khi không yêu cầu phải chứng thực hợp đồng hợp tác. 

Theo quy định của BLDS 2015, văn bản hợp tác có thể là văn bản thường (có chữ kí của các chủ thể trong hợp đồng) hoặc văn bản có công chứng, chứng thực. Điều này cũng đồng nghĩa, hình thức bắt buộc của hợp đồng hợp tác là hình thức văn bản và các chủ thể không thể giao kết hợp đồng bằng lời nói. Chiếu theo Điều 117 BLDS 2015, hình thức là một trong các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng hợp tác.

Hợp đồng hợp tác liên quan đến làm ăn, kinh doanh để cùng phân chia lợi nhuận, do đó, hình thức của hợp đồng văn bản giúp thể hiện rõ nhất ý chí của các bên và hạn chế mức thấp nhất các tranh chấp khi tiến hành phân chia lợi nhuận.

Tuy nhiên, các lĩnh vực hợp tác trong cuộc sống rất phong phú, đa dạng. Đó có thể là những trường hợp hợp tác mà giá trị hợp đồng lớn, công việc hợp tác phức tạp, kéo dài, nhưng cũng có trường hợp giá trị hợp đồng nhỏ, công việc giản đơn và thời hạn hợp đồng ngắn. Do đó, sẽ không phù hợp nếu quy định mọi loại hợp đồng hợp tác đều phải được lập dưới hình thức văn bản. Có thể quy định hình thức của hợp đồng hợp tác không cần bắt buộc là phải lập thành văn bản, đặc biệt là những hợp đồng hợp tác giản đơn, có giá trị nhỏ. Còn đối với các hợp đồng hợp tác trong lĩnh vực thương mại, xây dựng hay kinh doanh bất động sản thì các luật liên quan sẽ có quy định riêng để điều chỉnh những hợp đồng hợp tác mang tính chuyên biệt đó.

2. Nội dung của hợp đồng hợp tác

Nhằm mục đích định hướng cho các cá nhân, pháp nhân tham gia vào quan hệ hợp đồng hợp tác và giảm thiểu tối đa các tranh chấp xảy ra, Điều 505 BLDS 2015 quy định các nội dung chủ yếu của hợp đồng hợp tác bao gồm:

(1) Mục đích, thời hạn hợp tác:

Mục đích là các lợi ích mà chủ thể tham gia hợp đồng hợp tác cùng hướng tới. Việc quy định mục đích sẽ giúp định hướng việc sử dụng tài sản, cùng thực hiện công việc hướng đến mục đích này. Thời hạn hợp tác là khoảng thời gian các chủ thể cùng đóng góp sức, cùng sử dụng tài sản để thực hiện công việc hợp tác chung.

(2) Họ, tên, nơi cư trú của cá nhân; tên, trụ sở của pháp nhân:

Họ, tên, nơi cư trú của cá nhân; tên, trụ sở của pháp nhân là những yếu tố nhằm cá biệt hóa, cụ thể hóa chủ thể tham gia giao kết hợp đồng, tránh trường hợp nhầm lẫn trong xác định thành viên hợp tác. Ngoài các yếu tố này, các bên tham gia hợp đồng hợp tác có thể ghi nhận thêm các thông tin khác trong hợp đồng như: số chứng minh nhân dân/căn cước công dân; ngày tháng năm sinh (cá nhân); ngày tháng thành lập (pháp nhân); người đại điện của cá nhân, pháp nhân…

(3) Tài sản đóng góp, nếu có:

Trong trường hợp các bên giao kết hợp đồng hợp tác đóng góp tài sản thì cần ghi rõ vào hợp đồng về loại tài sản đóng góp (tiền, nhà, trang thiết bị…), tỉ lệ đóng góp, thời điểm đóng góp, quyền và nghĩa vụ của các thành viên hợp tác trong việc sử dụng, định đoạt tài sản được đóng góp, chủ thể có quyền, trách nhiệm giữ tài sản đóng góp hoặc gửi giữ tại ngân hàng.

(4) Đóng góp bằng sức lao động, nếu có:

Các bên tham gia hợp đồng hợp tác có thể đóng góp bằng sức lao động của mình. Trong trường hợp này, nội dung hợp đồng cần xác định rõ loại công việc phải thực hiện, địa điểm tiến hành công việc, chủ thể đóng góp sức lao động, thời gian cho việc đóng góp sức lao động.

(5) Phương thức phân chia hoa lợi, lợi tức:

Để tránh tranh chấp xảy ra giữa các chủ thể, hợp đồng hợp tác cần ghi nhận rõ phương thức phân chia hoa lợi, lợi tức cho từng chủ thể. Thông thường, việc phân chia hoa lợi, lợi tức thường được xác định trên cơ sở tỉ lệ đóng góp sức lao động, tài sản của từng chủ thể. Đối với những hợp đồng hợp tác giao kết trên cơ sở tình cảm, thông thường các bên thỏa thuận phân chia đều hoa lợi, lợi tức.

(6) Quyền, nghĩa vụ của thành viên hợp tác:

Khi tham gia vào hợp đồng hợp tác, từng thành viên có các quyền, nghĩa vụ nhất định. Phạm vi các quyền, nghĩa vụ của từng thành viên hợp tác được xác định theo nội dung ghi nhận trong hợp đồng.

(7) Quyền, nghĩa vụ của người đại diện, nếu có:

Để thuận lợi cho quá trình thực hiện hợp đồng, đặc biệt khi tham gia giao kết hợp đồng với một chủ thể khác, các thành viên có thể cử một người đại diện cho các thành viên hợp tác. Để tránh trường hợp vượt quá phạm vi thẩm quyền hoặc thực hiện không đúng thẩm quyền, hợp đồng hợp tác cần ghi nhận phạm vi quyền, nghĩa vụ của người đại diện cho các thành viên hợp tác.

(8) Điều kiện tham gia và rút khỏi hợp đồng hợp tác của thành viên, nếu có:

Trong hợp đồng hợp tác cần quy định cụ thể các điều kiện tham gia hoặc rút khỏi hợp đồng để việc tham gia hoặc không tham gia của thành viên hợp tác không làm ảnh hưởng đến sự ổn định của việc hợp tác.

(9) Điều kiện chấm dứt hợp tác:

Điều kiện chấm dứt hợp tác là những sự kiện được các bên dự liệu mà khi xảy ra các sự kiện đó thì hợp đồng chấm dứt. Khi giao kết hợp đồng hợp tác, các bên có thể thỏa thuận về điều kiện chấm dứt hợp tác.

Tuy nhiên, nghiên cứu về Điều 505 BLDS 2015, chúng ta có thể nhận thấy một số điểm cần bàn như sau:

Một là, khoản 2 Điều 505 BLDS 2015 quy định về “Họ, tên, nơi cư trú của cá nhân; tên, trụ sở của pháp nhân” - bản chất đây là yếu tố nhằm định danh các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng, không phải điều khoản do các bên thỏa thuận. Do vậy, nội dung này nên loại bỏ khỏi quy định tại Điều 505 BLDS 2015.

Hai là, khoản 3 và khoản 4 Điều 505 BLDS 2015 nói về tài sản đóng góp và đóng góp bằng sức lao động. Nếu như các bên có thỏa thuận về việc đóng góp thì việc đóng góp này trở thành nghĩa vụ của các bên. Tuy nhiên, khoản 6 Điều 505 BLDS 2015 đề cập đến nghĩa vụ của các thành viên hợp tác - đã bao hàm nội dung của khoản 3 và khoản 4 Điều 505 BLDS 2015. Hơn nữa khoản 6 Điều 505 BLDS 2015 nói về quyền và nghĩa vụ của các thành viên, trong đó bao gồm cả quyền và nghĩa vụ của người đại diện, nên khoản 7 Điều 505 BLDS 2015 quy định riêng về vấn đề này là không cần thiết.

Ba là, khoản 8 Điều 505 BLDS 2015 quy định điều kiện tham gia hợp đồng hợp tác là không hợp lý. Bởi lẽ, điều kiện để một chủ thể tham gia hợp đồng hợp tác là do pháp luật quy định, không phải là do các bên thỏa thuận. Do vậy, khoản 8 Điều 505 BLDS 2015 nên loại bỏ “điều kiện tham gia”, tức là chỉ còn “điều kiện rút khỏi”. 

3. Tài sản chung của các thành viên hợp tác

Các quy định về tài sản chung của các thành viên hợp tác là cơ sở pháp lý để các thành viên hợp tác thực hiện quá trình chiếm hữu, sử dụng, định đoạt khối tài sản chung của mình. Đây cũng là cơ sở để xác định quyền, nghĩa vụ của các bên trong trường hợp phân chia tài sản chung, là cơ sở để giải quyết tranh chấp khi phân chia tài sản chung nếu không có thỏa thuận.

Theo quy định tại Điều 506 BLDS 2015, tài sản chung của các thành viên hợp tác gồm các nội dung sau:

(1) Cơ sở hình thành tài sản chung của các thành viên hợp tác bao gồm:

- Tài sản do các thành viên đóng góp

- Tài sản do các thành viên hợp tác cùng tạo lập

- Tài sản khác theo quy định của pháp luật: tài sản chung của các thành viên được thừa kế chung hoặc tặng cho chung…

(2) Hình thức sở hữu chung của các thành viên hợp tác: 

BLDS 2015 quy định hình thức sở hữu đối với tài sản chung của các thành viên hợp tác là thức thức sở hữu chung theo phần. Do đó, mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

(3) Trách nhiệm của thành viên hợp tác khi chậm góp tiền theo thỏa thuận:

Khi các thành viên hợp tác thỏa thuận góp tiền, thành viên hợp tác chậm góp sẽ phát sinh trách nhiệm trả lãi đối với phần tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357 BLDS 2015. Bên cạnh đó, việc chậm đóng góp gây thiệt hại cho các thành viên hợp tác khác thì chủ thể này có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Việc bồi thường thiệt hại sẽ theo thỏa thuận của các bên. Nếu các bên không thỏa thuận được thì bồi thường theo quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại.

Việc quy định thành viên góp tài sản chậm phải trả lãi là hoàn toàn phù hợp, điều này vừa nâng cao trách nhiệm của các thành viên hợp tác trong việc đóng góp tiền đồng thời đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành viên đóng góp tiền đúng thời hạn và thành viên đóng chậm. 

Tuy nhiên, khoản 1 Điều 506 BLDS 2015 còn thiếu sót khi chỉ quy định: “Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.” Điều này được hiểu là trách nhiệm trả lãi chỉ được áp dụng đối với trường hợp các thành viên góp tiền. Trong khi đó, Điều 505 và Điều 506 BLDS 2015 quy định các thành viên hợp tác góp tài sản chung mà tiền chỉ là một trong số các loại tài sản. Do đó, trường hợp các thành viên hợp tác không chậm góp tiền mà chậm góp vật, giấy tờ có giá hay quyền tài sản thì trách nhiệm trả lãi được xác định như thế nào? Luật vẫn chưa quy định cụ thể nội dung này, điều này có thể dẫn đến cách hiểu trường hợp chậm góp vật, giấy tờ có giá, hay quyền tài sản thì thành viên chậm đóng góp không phải chịu trách nhiệm trả lãi.

Bên cạnh đó, quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại tại Khoản 1 Điều 506 còn chưa phù hợp. Không phải trường hợp nào cũng xảy ra thiệt hại từ việc chậm đóng góp. Mà mục đích của việc bồi thường thiệt hại là khắc phục hậu quả gây ra. Do đó, để đảm bảo tính hợp lý, cần thêm hai từ “nếu có” vào sau cụm từ bồi thường thiệt hại.

(4) Việc định đoạt tài sản chung của thành viên hợp tác được quy định như sau:

Việc định đoạt tài sản là quyền sử dụng đất, nhà, xưởng sản xuất, tư liệu sản xuất khác phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của tất cả thành viên. Việc định đoạt tài sản khác do đại điện của các thành viên quyết định, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Quy định này có chỗ không phù hợp là người đại diện trong hợp đồng hợp tác theo quy định của BLDS 2015 chỉ có thể là đại diện theo ủy quyền của các thành viên hợp tác khác. Nếu các thành viên không có thỏa thuận thì đồng nghĩa với việc họ không ủy quyền cho người đại diện định đoạt các tài sản không phải là tư liệu sản xuất. Do vậy, việc quy định như vậy có thể xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên hợp tác khác.

(5) Phân chia tài sản chung của các thành viên hợp tác:

Về nguyên tắc, hợp đồng hợp tác chưa kết thúc thì các bên chưa phân chia tài sản chung. Do đó, tài sản chung chỉ được phân chia khi các thành viên hợp tác cùng thống nhất ý chí, có thỏa thuận cho phép phân chia. 

Tuy nhiên việc phân chia tài sản chung không làm ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của các thành viên trong hợp đồng hợp tác. Do đó, các thành viên vẫn phải tuân thủ các quyền, nghĩa vụ của mình theo nội dung hợp đồng mà mình đã thỏa thuận.

4. Quyền, nghĩa vụ của thành viên hợp tác

Quyền và nghĩa vụ của thành viên hợp tác được quy định tại Điều 507 BLDS 2015 với các nội dung chính sau:

Thứ nhất, các thành viên hợp tác được hưởng hoa lợi, lợi tức thu được từ hoạt động hợp tác. Việc hưởng hoa lợi, lợi tức của các thành viên hợp tác được xác định theo thỏa thuận của các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì việc phân chia hoa lợi, lợi tức được xác định theo khoản 1 Điều 217 BLDS 2015: “Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.” Thông thường hoa lợi, lợi tức chỉ phát sinh tự nhiên hoặc thông qua việc khai thác công dụng của tài sản. Tuy nhiên, trong hợp đồng hợp tác, các bên không chỉ đóng góp tài sản mà còn có thể đóng góp công sức, như vậy việc hưởng hoa lợi, lợi tức sẽ không đặt ra. Do vậy, khoản 1 Điều 507 BLDS 2015 cần bổ sung thêm cụm từ “lợi nhuận” để phù hợp hơn.

Thứ hai, các thành viên hợp tác được tham gia quyết định các vấn đề liên quan đến thực hiện hợp đồng hợp tác, giám sát hoạt động hợp tác. Việc tham gia quyết định hoặc giám sát hoạt động hợp tác là một quyền cơ bản của thành viên hợp tác nhằm bảo vệ quyền lợi của mình, đặc biệt nhằm bảo toàn khối tài sản chung của các thành viên hợp tác.

Thứ ba, các thành viên hợp tác phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho các thành viên hợp tác khác do lỗi của mình gây ra. Về nguyên tắc chung, mức bồi thường do các bên thỏa thuận; trường hợp các bên không thỏa thuận về mức bồi thường thì khoản tiền bồi thường thiệt hại được xác định theo thiệt hại thực tế đã phát sinh.

Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, bồi thường thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có sự vi phạm nghĩa vụ nên việc liệt kê trách nhiệm bồi thường vào phần nghĩa vụ của các thành viên hợp tác là không hợp lý. Do đó, cần tách quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của thành viên hợp tác ra thành một nội dung độc lập. Bên cạnh đó, pháp luật nên bổ sung trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người thứ ba khi thành viên hợp tác trong quá trình thực hiện công việc gây thiệt hại. 

Thứ tư, các thành viên hợp tác phải thực hiện quyền, nghĩa vụ khác theo hợp đồng. Ví dụ như chủ thể có quyền và trách nhiệm giữ, bảo quản tài sản chung của các thành viên hợp tác; nghĩa vụ của các thành viên hợp tác trong việc đóng góp tài sản hoặc công sức.

5. Xác lập, thực hiện giao dịch dân sự

Cơ chế xác lập và thực hiện giao dịch dân sự của hợp tác gồm:

- Xác lập giao dịch thông qua người đại diện: Nhóm các thành viên hợp tác không có tư cách pháp nhân, không có người đại diện theo pháp luật. Do vậy khi tham gia vào các giao dịch, các thành viên tổ hợp tác có thể cử người đại diện.

- Xác lập giao dịch do toàn bộ các thành viên hợp tác: Trường hợp các thành viên không cử người đại diện thì tất cả cùng phải trực tiếp tham gia giao dịch với tư cách là một bên của giao dịch.

Các giao dịch do người đại diện theo ủy quyền hoặc do tất cả các thành viên xác lập làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của tất cả các thành viên hợp tác. 

6. Trách nhiệm dân sự của thành viên hợp tác

Khi người đại diện theo ủy quyền hoặc tất cả các thành viên tham gia giao dịch mà không thực hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ hoặc gây thiệt hại thì các thành viên của nhóm hợp tác phải chịu trách nhiệm dân sự.

Trách nhiệm dân sự của các thành viên hợp tác được quy định tại Điều 509 BLDS 2015 như sau:

- Các thành viên hợp tác chịu trách nhiệm dân sự chung bằng tài sản chung.

- Nếu tài sản chung không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung thì thành viên hợp tác phải chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng theo phần tương ứng với phần đóng góp của mình, trừ trường hợp hợp đồng hợp tác hoặc luật có quy định khác.

7. Rút khỏi, gia nhập hợp đồng hợp tác

a) Rút khỏi hợp đồng hợp tác

Theo quy định tại Điều 510 BLDS 2015, thành viên có quyền rút khỏi hợp đồng hợp tác trong hai trường hợp sau:

- Theo điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng hợp tác. Đây là các điều kiện được các thành viên hợp tác dự liệu từ thời điểm đàm phán, giao kết hợp đồng hợp tác. Khi gặp các điều kiện đã dự liệu thì các thành viên có quyền rút khỏi hợp đồng hợp tác.

- Có lý do chính đáng và được sự đồng ý của hơn một nửa tổng số thành viên hợp tác. Lý do chính đáng có thể là các lý do về sức khỏe, thay đổi nơi cư trú, hoặc lâm vào tình trạng phá sản… Lý do chính đáng đó phải chi phối trực tiếp đến khả năng tiếp tục tham gia vào hợp đồng hợp tác của thành viên đó.

Thành viên rút khỏi hợp đồng hợp tác có quyền yêu cầu nhận lại tài sản đã đóng góp, được chia phần tài sản trong khối tài sản chung và phải thanh toán các nghĩa vụ theo thỏa thuận. Trường hợp việc phân chia tài sản bằng hiện vật làm ảnh hưởng đến hoạt động hợp tác thì tài sản được tính giá trị thành tiền để chia. Việc rút khỏi hợp đồng hợp tác không làm chấm dứt quyền, nghĩa vụ của người này được xác lập, thực hiện trước thời điểm rút khỏi hợp đồng hợp tác.

Trường hợp thành viên tự rút khỏi hợp đồng hợp tác là vi phạm hợp đồng hợp tác, nên phải chịu trách nhiệm dân sự theo hợp đồng hợp tác và phải chịu các trách nhiệm dân sự khác theo quy định của BLDS và luật liên quan.

b) Gia nhập hợp đồng hợp tác

Theo quy định tại Điều 511 BLDS 2015, việc gia nhập hợp đồng hợp tác dựa trên hai căn cứ sau:

Nếu trong hợp đồng hợp tác các thành viên thỏa thuận về điều kiện ra nhập hợp đồng hợp tác thì cá nhân, pháp nhân nào có đủ điều kiện theo quy định trong hợp đồng hợp tác thì trở thành thành viên của hợp đồng hợp tác.

Nếu trong hợp đồng hợp tác không quy định về điều kiện ra nhập hợp đồng thì khi có hơn một nửa tổng số thành viên đồng ý thì người có nhu cầu tham gia hợp đồng hợp tác sẽ là thành viên của nhóm hợp tác.

8. Chấm dứt hợp đồng hợp tác

Theo khoản 1 Điều 512 BLDS 2015, hợp đồng hợp tác chấm dứt trong các trường hợp sau:

(1) Theo thỏa thuận của các thành viên hợp tác: Khi hợp đồng hợp tác đang tồn tại, nhưng do công việc hợp tác không đạt được hiệu quả như mong muốn hoặc vì những lý do khác, các thành viên có thể thỏa thuận chấm dứt hợp đồng hợp tác.

(2) Hết thời hạn ghi trong hợp đồng hợp tác: Các thành viên của nhóm hợp tác có thể thỏa thuận trong hợp đồng hợp tác về thời hạn hợp tác, khi hết thời hạn đó thì hợp đồng hợp tác chấm dứt.

(3) Mục đích hợp tác đã đạt được: Khi mục đích của việc xác lập hợp đồng hợp tác của các thành viên đã đạt được thì hợp đồng hợp tác không còn cần thiết đối với các thành viên nữa, nên hợp đồng hợp tác chấm dứt.

(4) Theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Nếu nhóm hợp tác hoạt động không đúng mục đích xác lập hợp đồng mà xâm hại đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ quyết định giải thể nhóm hợp tác đó.

(5) Trường hợp khác theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan: Đây là một quy định mở, dự liệu các trường hợp khác chấm dứt hợp đồng hợp tác.

Về hậu quả pháp lý, khi chấm dứt hợp đồng hợp tác, các khoản nợ phát sinh từ hợp đồng phải được thanh toán, nếu tài sản chung không đủ để trả nợ thì phải lấy tài sản riêng của các thành viên hợp tác để thanh toán theo quy định tại Điều 509 BLDS 2015.

Trường hợp các khoản nợ đã được thanh toán xong mà tài sản chung vẫn còn thì được chia cho các thành viên hợp tác theo tỷ lệ tương ứng với phần đóng góp của mỗi người, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Quy định này hoàn toàn phù hợp vì bản chất sở hữu chung của các thành viên hợp tac là sở hữu chung theo phần.

III. Thực tiễn thực hiện hợp đồng hợp tác

1. Hợp đồng hợp tác để thành lập tổ hợp tác

Hợp đồng hợp tác là cơ sở để hình thành nên tổ hợp tác và được các chủ thể trong đời sống kinh tế - xã hội áp dụng, thực hiện hiệu quả với mục tiêu thành lập một tổ chức để cùng thực hiện các mục đích kinh tế.

Xu hướng tổ hợp tác được thành lập và hoạt động có hiệu quả liên tục gia tăng. Năm 2020, ước tính trên cả nước có khoảng 130 nghìn tổ hợp tác. Trong 6 tháng đầu năm 2020, mặc dù bị tác động nặng nề do đại dịch COVID-19 và giãn cách xã hội nhưng cả nước vẫn thành lập mới 3.000 tổ hợp tác. 

Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, “Kinh nghiệm quốc tế cho thấy hình thức hợp tác giản đơn giữa các nhà sản xuất nhỏ như tổ hợp tác đặc biệt thích hợp với trình độ phát triển hiện nay ở Việt Nam, nhất là trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt khi Việt Nam gia nhập kinh tế quốc tế, đáp ứng nguyện vọng của nông dân, bước đầu đã khắc phục được những khó khăn của từng hộ nông dân riêng lẻ trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, mang lại hiệu quả kinh tế cho các thành viên. Đồng thời, góp phần nâng cao năng lực của kinh tế hộ, giúp các hộ sử dụng có hiệu quả hơn về đất đai, lao động, vật tư và tiền vốn, cũng như thực hiện nhiệm vụ đầu mối chuyển giao khoa học kỹ thuật và trung gian trong liên kết tiêu thụ giữa nông dân với doanh nghiệp trong thực hiện cánh đồng mẫu lớn.”

Như vậy, với xu hướng này, các quy định của BLDS 2015 về hợp đồng hợp tác sẽ tiếp tục là nền tảng pháp lý để các chủ thể tuân thủ, lấy làm hành lang để thực hiện việc thỏa thuận, hình thành nên tổ hợp tác trong giai đoạn tiếp theo.

2. Hợp đồng hợp tác kinh doanh

Trong quá trình sản xuất, kinh doanh nhằm mở rộng thị trường, tăng lợi nhuận, các doanh nghiệp thường cùng nhau hợp tác kinh doanh. Do những ưu điểm nổi trội mà hiện nay ở nước ta đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) đang ngày càng được các nhà đầu tư trong và ngoài nước ưu tiên chọn lựa.

Trên thực tế, có nhiều hợp đồng BCC đã được ký kết. Trong lĩnh vực dầu khí, có nhiều hợp đồng BCC giữa nhà đầu tư nước ngoài với Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam như hợp đồng BCC giữa Tổng công ty Khí Việt Nam (PVGas), Chevron (Hoa Kỳ), MOECO (Nhật Bản) và PTTEP (Thái Lan) ký ngày 11/3/2010 nhằm hợp tác kinh doanh đường ống dẫn khí Lô B – Ô Môn. Trong lĩnh vực viễn thông, BCC cũng là hình thức đầu tư phổ biến như hợp đồng BCC giữa Comvik (Thụy Điển) với VNPT để phát triển mạng di động MobiFone, hợp đồng BCC giữa VNPT với Telstra (Úc)… Đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản tại các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, nhiều dự án đã và đang được xây dựng theo hình thức hợp đồng BCC như hợp đồng hợp tác đầu tư số 08/HĐHTĐT ngày 18/2/2013 giữa công ty cổ phần đầu tư và phát triển nhà Gia Bảo và công ty cổ phần đầu tư và phát triển Nha Trang – Hà Nội xây dựng chung cư D2 Giảng Võ, Hà Nội. Một ví dụ khác là ngày 20/4/2018 tại thành phố Hồ Chí Minh, tập đoàn Nam Long và hai nhà đầu tư Nhật Bản là Hankyu Hanshin Properties Corp (Osaka) và Nishi Nippom Railroad Residence ký kết hợp tác và công bố dự án khu đô thị Akari, quận Bình Tân.

3. Kiến nghị hoàn thiện quy định của BLDS về hợp đồng hợp tác

Thứ nhất, kiến nghị sửa đổi khoản 2 Điều 504 BLDS 2015 như sau: “Hình thức của hợp đồng hợp tác do các bên thỏa thuân, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.”

Thứ hai, cần có quy định rõ ràng hơn nữa về phạm vi trách nhiệm của các chủ thể tham gia quan hệ hợp tác. Nên bỏ nội dung quy định tại khoản 2 và khoản 7 Điều 505 BLDS 2015.

Thứ ba, cần hoàn thiện trách nhiệm trả lãi khi chậm góp tài sản nói chung, chứ không phải chỉ riêng góp tiền. 

Thứ tư, BLDS cần tách trách niệm bồi thường thiệt hại ra một điều riêng và bổ sung quy định trách nhiệm của thành viên hợp tác đối với bên thứ ba.

KẾT LUẬN

Hợp đồng là một loại hợp đồng phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội, được các chủ thể giao kết, thực hiện ngay từ khi BLDS chưa có quy định về loại hợp đồng này. BLDS 2015 đã có những quy định riêng biệt để điều chỉnh hợp đồng hợp tác nhưng các quy định này vẫn cho một số điểm không phù hợp. Chính vì vậy, vấn đề hoàn thiện các quy định của BLDS về hợp đồng hợp tác là một vấn đề cấp thiết, đặc biệt trong bối cảnh nhiều thỏa thuận hợp tác tiếp tục được xác lập, thực hiện.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

* Văn bản pháp luật:

1. Bộ luật dân sự Việt Nam 2015

2. Bộ luật dân sự Việt Nam 2005

* Giáo trình:

3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam (tập 2), NXB Công an nhân dân, 2019.

* Sách tham khảo:

4. PGS.TS. Nguyễn Văn Cừ, PGS.TS. Trần Thị Huệ (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Công an nhân dân, 2017.

* Đề tài nghiên cứu khoa học:

5. Trường Đại học Luật Hà Nội, đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Hợp đồng hợp tác trong Bộ luật dân sự năm 2015, Hà Nội, 2018

* Bài tạp chí: 

6. Nguyễn Sỹ Anh, Hợp đồng hợp tác theo Bộ luật Dân sự năm 2015, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 12/2016, tr. 16 – 19.

7. TS. Lê Thị Giang, Khái niệm, hìn thức của hợp đồng hợp tác trong Bộ luật Dân sự 2015, Tạp chí Kiểm sát, số 6/2020, tr. 37 – 42. 

8. TS. Lê Đăng Khoa, Luận bàn một số vấn đề về hợp đồng hợp tác trong Bộ luật Dân sự 2015, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, số chuyên đề 2, tr. 39 – 47.

9. TS Bùi Kim Hiếu, Bàn về hợp đồng hợp tác theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, Tạp chí công thương số 07/2017

http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/ban-ve-hop-dong-hop-tac-theo-quy-dinh-cua-bo-luat-dan-su-nam-2015-48366.htm (truy cập ngày 9/11/2020)

Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU

Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

You Might Also Like

0 nhận xét