BÀI TẬP LỚN MÔN LUẬT HÌNH SƯ 1 HLU

tháng 9 23, 2023

Đề bài: Do mâu thuẫn với C, A (17 tuổi), B (15 tuổi) cùng bàn bạc sau đó tấn công gây thương tích cho C với tỷ lệ tổn thương cơ thể 25%. Sau khi gây thương tích cho C, A và B còn đập phá làm thiệt hại tài sản của C trị giá 300 triệu đồng. Toà án kết án A về hai tội theo khoản 1 Điều 134 và khoản 3 Điều 178 BLHS.

Câu hỏi:

1. Tội cố ý gây thương tích mà A thực hiện (khoản 1 Điều 134 BLHS) thuộc loại tội nào theo phân loại tội phạm tại Điều 9 BLHS? (1,5 điểm)

2. B có bị coi là đồng phạm với A về hai tội nêu trên không? Tại sao? (2 điểm)

3. Hình phạt cao nhất tòa án có thể áp dụng đối A về hai tội trong trường hợp nêu trên là bao nhiêu năm tù? (2 điểm)

4. Nếu bị kết án về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, thì hình phạt cao nhất mà tòa án có thể áp dụng đối với B là bao nhiêu năm tù? (1,5 điểm)



MỞ ĐẦU

Hiện nay, hiện tượng người chưa đủ 18 tuổi phạm tội tồn tại khá phổ biến trong xã hội. Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm – sinh lí, trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống của họ còn hạn chế, dễ bị kích động, lôi kéo vào những hành động phi pháp, nhưng cũng dễ giáo dục và cải tạo. Vì vậy, BLHS 2015 đã quy định thêm nguyên tắc bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi phạm tội và việc xử lí chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát trển lành mạnh khi xử lí người dưới 18 tuổi phạm tội.

Để làm rõ hơn về vấn đề này, sau đây em xin trình bày về phương hướng giải quyết vấn đề số 04, có liên quan đến người chưa đủ 18 tuổi phạm tội.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1. Tội cố ý gây thương tích mà A thực hiện (khoản 1 Điều 134 BLHS) thuộc loại tội nào theo phân loại tội phạm tại Điều 9 BLHS?

Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, được quy định trong luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện và phải chịu hình phạt.

Tội phạm tuy có chung dấu hiệu là tính nguy hiểm cho xã hội nhưng mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội không phải như nhau mà có sự khác nhau giữa các tội phạm cũng như các trường hợp phạm tội của tội cụ thể. Vì vậy, phân hóa và cá thể hóa hình phạt cũng như trách nhiệm hình sự là nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam. 

Luật hình sự Việt Nam phân tội phạm thành bốn nhóm: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Theo khoản 1 điều 9 BLHS 2015, các nhóm tội phạm được định nghĩa như sau:

“a) Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;

b) Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù;

c) Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;

d) Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”

Trong tình huống đề bài đưa ra, A phạm tội cố ý gây thương tích theo khoản 1 điều 134 BLHS 2015. Mà khoản 1 điều 134 BLHS quy định:

“Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;

đ) Có tổ chức;

e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;

i) Có tính chất côn đồ;

k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.”

Ta thấy, mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội cố ý gây thương tích của A là 3 năm tù. Vậy tội cố ý gây thương tích mà A đã thực hiện trong tình huống nêu trên thuộc loại tội ít nghiêm trọng.

2. B có bị coi là đồng phạm với A về hai tội nêu trên không? Tại sao? 

Điều 17 BLHS 2015 quy định: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.”

Về mặt khách quan, đồng phạm đòi hỏi có hai dấu hiệu: có hai người trở lên và cùng thực hiện tội phạm.

Đồng phạm đòi hỏi phải có ít nhất hai người và hai người này phải có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm. Đó là điều kiện có năng lực TNHS (có năng lực nhận thức, năng lực điều khiển hành vi và đủ tuổi chịu TNHS). Mặt khác, đồng phạm phải cùng thực hiện tội phạm, có nghĩa là người đồng phạm phải tham gia vào tội phạm với một trong bốn hành vi: thực hiện tội phạm, tổ chức thực hiện tội phạm, xúi giục người khác thực hiện tội phạm, giúp sức người khác thực hiện tội phạm.

Về mặt chủ quan, đồng phạm đòi hỏi người cùng thực hiện tội phạm đều có lỗi cố ý. Ngoài ra đối với những tội có dấu hiệu mục đích phạm tội là dấu hiệu bắt buộc, đồng phạm đòi hỏi những người cùng thực hiện phải có cùng mục đích phạm tội đó.

Xét tình huống đề bài đưa ra: B thực hiện hành vi gây thương tích cho C và đập phá tài sản của C khi mới 15 tuổi.

Khoản 2 điều 12 BLHS 2015 quy định:

“Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.”

Tội cố ý gây thương tích theo khoản 1 điều 134 là tội phạm ít nghiêm trọng theo xác định ở trên nên B không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích. Do vậy B không phải đồng phạm của A trong tội cố ý gây thương tích.

Về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo khoản 3 điều 178, BLHS 2015 quy định:

“Phạm tội gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.” 

Xét thấy, mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trong trường hợp này là 10 năm tù. Vậy tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trong tình huống nêu trên thuộc loại tội rất nghiêm trọng. Như vậy, B phải chịu trách nhiệm hình sự về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.

Đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản:

Về mặt khách quan, hành vi phạm tội do 2 người A và B cùng thực hiện một cách cố ý, cụ thể A và B cùng đập phá làm thiệt hại tài sản của C có giá trị 300 triệu đồng.  A và B đều có năng lực trách nhiệm hình sự về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo khoản 3 điều 178.

Về mặt chủ quan, A và B đều nhận thức được hành vi của mình gây nguy hiểm cho xã hội và nhận thức được hậu quả của hành vi, đó là sẽ gây thiệt hại cho tài sản của C. Tuy nhiên cả A và B đều hy vọng hậu quả đó sẽ xảy ra, A và B đều có lỗi cố ý.

Từ các phân tích trên, ta có thể kết luận B là đồng phạm của A về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.

Vậy B không là đồng phạm của A trong tội cố ý gây thương tích và B là đồng phạm của A trong tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản.

3. Hình phạt cao nhất tòa án có thể áp dụng đối A về hai tội trong trường hợp nêu trên là bao nhiêu năm tù? 

Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm. Điều này hướng đến trọng tâm của việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội là giáo dục, giúp đỡ để họ trở thành người có ích cho xã hội. Đây là nguyên tắc chung, bao trùm và chi phối nội dung các nguyên tắc còn lại trong xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật hình sự nước ta và hoàn toàn phù hợp với tinh thần của các công ước quốc tế về tư pháp người dưới 18 tuổi. 

Xét trường hợp A phạm tội khi 17 tuổi như tình huống đề bài đưa ra:

Đối với tội cố ý gây thương tích theo khoản 1 điều 134 BLHS, mức phạt cao nhất của khung hình phạt là 3 năm tù.

Đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo khoản 3 điều 178 BLHS, mức phạt cao nhất của khung hình phạt là 10 năm tù.

Khoản 1 điều 101 BLHS quy định: “Mức phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định như sau:

1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.”

Do A 17 tuổi nên mức án cao nhất tòa án có thể áp dụng với A không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định. Như vậy, đối với A 17 tuổi:

- Mức hình phạt cao nhất về tội cố ý gây thương tích là: 

3 năm x 3/4 = 2 năm 3 tháng tù.

- Mức hình phạt cao nhất về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là: 

10 năm x 3/4 =  7 năm 6 tháng tù.

Vậy mức hình phạt cao nhất tòa án có thể tuyên với A là: 

2 năm 3 tháng + 7 năm 6 tháng = 9 năm 9 tháng tù.

4. Nếu bị kết án về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, thì hình phạt cao nhất mà tòa án có thể áp dụng đối với B là bao nhiêu năm tù? 

Đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo khoản 3 điều 178 BLHS, mức phạt cao nhất của khung hình phạt là 10 năm tù.

Khoản 2 điều 101 BLHS quy định: “Mức phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định như sau:

2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.”

Do B mới 15 tuổi nên mức án cao nhất tòa án có thể áp dụng với B không quá một phần hai mức phạt tù mà khoản 2 điều 101 BLHS quy định. Vậy mức án cao nhất tòa án có thể áp dụng với B là:

10 năm x 1/2 = 5 năm tù

KẾT LUẬN

Đấu tranh phòng chống tội phạm để bảo vệ và duy trì trật tự xã hội là nhiệm vụ quan trọng của nhà nước ta. Bằng việc xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm và quy định hình phạt đối với người thực hiện hành vi ấy, BLHS hiện hành đã tạo ra cơ sở pháp lí thống nhất cho các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không để oan người vô tội… góp phần tăng cường, củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phòng chống tội phạm, bảo vệ trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đồng thời, các chính sách nhân đạo của nhà nước đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng góp phần cải tạo, giáo dục họ, đưa họ ra khỏi con đường tội lỗi, giúp họ làm lại cuộc đời, thể hiện sự nhân văn của nhà nước ta.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

* Văn bản pháp luật:

1. Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội của nghĩa Việt Nam năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

* Giáo trình:

2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam phần chung, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2019.

* Sách tham khảo:

3. GS. TS. Nguyễn Ngọc Hoà (Chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015, Được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Phần chung) Nxb. Tư Pháp, Hà Nội, 2017.

4. Trần Quang Tiệp, Đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2007.

* Tạp chí:

5. Hoàng Thị Kim Anh, Trần Ngọc Lan Trang, “Một số điểm mới về quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015”, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao, Số 3/2016, tr. 1 – 4

6. Đại tá, PGS, TS. Trần Thành Hưng, “Trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)”, Tạp chí Khoa học Giáo dục Cảnh sát Nhân dân, số 99

Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU

Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

You Might Also Like

0 nhận xét