BÀI TẬP NHÓM MÔN LUẬT DÂN SỰ 2 HLU
tháng 9 22, 2023Đề bài: Hãy sưu tầm một bản án sơ thẩm liên quan đến tranh chấp về bảo lãnh mà theo quan điểm của nhóm các phán quyết đưa ra trong bản án là chưa phù hợp và giải quyết các yêu cầu:
1. Tóm tắt bản án
2. Hãy chỉ ra những điểm chưa phù hợp của phán quyết và giải thích
3. Đưa ra quan điểm của nhóm về giải quyết tranh chấp phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành
4. Từ việc phân tích vụ án, nhóm hãy đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật hiện hành.
Câu 1: Tóm tắt nội dung vụ việc dưới dạng tình huống:
Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2017/KDTM-ST ngày 24/4/2017 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP ĐT và PT (gọi tắt là Ngân hàng ĐT)
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Xuân H, Nguyễn Thanh H.
Bị đơn: Ngân hàng TMCP SG-HN (gọi tắt là Ngân hàng S)
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Đinh Thị Kim A, bà Hoàng Thị P, bà Nguyễn Thu H.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Công ty Cổ phần Thủy sản BA (Nay là Công ty Cổ phần Thủy sản HN- CT) (gọi tắt là Công ty TS)
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Triệu Việt Th, bà Phạm Thị Thanh H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Ngày 11/6/2010, Ngân hàng ĐT ký Hợp đồng cung cấp tín dụng và các dịch vụ ngân hàng (số 411/2010/HĐ) với Công ty TS. Theo đó, Ngân hàng ĐT cho cho Công ty TS vay một hạn mức tín dụng tối đa không quá 50 tỷ đồng để mở rộng kinh doanh. Ngày 19/8/2011, hai bên tiếp tục ký HĐ số 530/2011/HĐ nâng hạn mức tín dụng tối đa cho Công ty TS lên 220 tỷ đồng.
Tài sản bảo đảm cho hạn mức tín dụng tại Hợp đồng tín dụng nêu trên bao gồm:
- 25.000.000 cổ phần thuộc sở hữu của bà Phạm Thị Diệu H tại Công ty TS.
- 65 quyền sử dụng đất nông nghiệp thuộc quyền sử dụng của bà Phạm Thị Diệu H tại Vùng nuôi thủy sản tại tỉnh VL và các tài sản trên đất
- Một số máy móc thiết bị tại Công ty TS cùng quyền sử dụng đất thuê làm trụ sở Công ty TS
Thực hiện hợp đồng số 530/2011/HĐ, Ngân hàng ĐT giải ngân cho Công ty TS vay tiền.
Do yếu kém trong quản lý, điều hành nên hoạt động kinh doanh của Công ty TS không hiệu quả. 25/11/2015, Công ty TS nợ Ngân hàng ĐT các khoản tiền: 139 tỷ 200 triệu đồng (gốc) và 110.788.513.527 đồng (lãi); 2.537.960 USD (gốc) và 1.154.504,84 USD (lãi).
Tháng 8/2012, Ngân hàng S đề nghị ngân hàng ĐT giải chấp, chuyển giao toàn bộ tài sản bảo đảm cùng hồ sơ liên quan đến tài sản của Công ty TS với điều kiện: S sẽ phát hành Thư bảo lãnh số 079.2012/BLTT/SHB.HO trị giá 215 tỷ 400 triệu đồng. Ngân hàng ĐT chấp nhận. Theo Thư bảo lãnh này, S cam kết thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh qua hai giai đoạn:
+) Sau 24 tháng kể từ ngày Thư bảo lãnh có hiệu lực, nếu Công ty TS chưa trả đủ 50% nợ và Ngân hàng ĐT có yêu cầu thì Ngân hàng S thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay; đảm bảo tổng số tiền Công ty đã trả (nếu có) và số tiền Ngân hàng S (trả nợ thay) bằng 50% giá trị bảo lãnh.
+) Sau 36 tháng kể từ ngày Thư bảo lãnh có hiệu lực, nếu Công ty TS không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng S có nghĩa vụ trả nợ thay 50% giá trị bảo lãnh còn lại (tính đến thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh) ngay khi Ngân hàng ĐT gửi văn bản yêu cầu.
Về sau, trong quá trình thực hiện Hợp đồng tín dụng, do Công ty TS liên tục vi phạm thời hạn thanh toán và Ngân hàng S không phản hồi yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh từ Ngân hàng ĐT nên:
Nay, Ngân hàng ĐT đề nghị Tòa án buộc Ngân hàng S thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (đến ngày 25/11/2015) gồm 249.962.513.527đ, 3.692.464,84 USD và lãi phát sinh từ 25/11/2015 đến khi thi hành xong bản án.
Ngân hàng TMCP SG - HN (S) có lời khai: Thực hiện Quyết định của Ngân hàng Nhà nước sáp nhập Ngân hàng TMCP Nhà HN vào Ngân hàng S, S phải xử lý ngay các khoản nợ xấu của Công ty TS tại Ngân hàng ĐT, Ngân hàng PT Việt Nam… Với tư cách là đơn vị tiếp nhận các khoản nợ xấu của Công ty TS đang có nguy cơ bị phá sản thì Ngân hàng S nhận nhiệm vụ tái cấu trúc toàn diện Công ty TS (bao gồm cả nợ xấu tại Ngân hàng N HN và các tổ chức tín dụng khác). Theo đó, Ngân hàng S buộc phải nắm quyền sở hữu và kiểm soát Công ty TS.
Thời điểm này, Công ty TS có cổ đông sáng lập là bà Phạm Thị Diệu H sở hữu 25.000.000 cổ phần nhưng thực tế thì Hội đồng Quản trị của công ty đã phát hành khống 02 Giấy chứng nhận 25.000.000 cổ phần đứng tên bà Diệu H để làm tài sản bảo đảm việc vay vốn tại Ngân hàng ĐT, Ngân hàng VDB và để bán cho Công ty Tư vấn Đầu tư và Dịch vụ H M. Cũng do tranh chấp 25.000.000đ cổ phần này nên S buộc phải phát hành Thư bảo lãnh thanh toán cho Công ty TS để Ngân hàng ĐT và Ngân hàng PT (các bên nhận bảo lãnh) giải tỏa số cổ phần nêu trên.
Thư bảo lãnh mang số 079.2012/BLTT/SHB.HO với trị giá bảo lãnh là toàn bộ dư nợ của Công ty TS tại Ngân hàng ĐT gồm dư nợ gốc VND và ngoại tệ quy đổi cùng dư nợ lãi phát sinh từ ngày Thư bảo lãnh có hiệu lực cho đến khi hoàn thành nghĩa vụ thanh toán của Công ty TS là 215 tỷ 400 triệu đồng (chưa gồm lãi phát sinh từ thời điểm bảo lãnh đến lúc hoàn thành nghĩa vụ trả nợ thay). Điều 4 của Thư bảo lãnh quy định: “Thư bảo lãnh có hiệu lực kể từ khi bên nhận bảo lãnh giải chấp toàn bộ tài sản, hồ sơ tài sản và các hình thức bảo đảm cho bên được bảo lãnh theo nội dung Biên bản làm việc ngày 23/8/2012.”
Ngày 24/8/2012, Công ty TS và Ngân hàng ĐT ký Biên bản bàn giao hồ sơ tài sản. Theo đó, Ngân hàng ĐT đồng ý giải chấp toàn bộ tài sản cùng 25.000.000 cổ phần của bà Diệu H và các tài sản, hồ sơ pháp lý các tài sản bảo đảm cho Ngân hàng S quản lý.
Trước yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thanh toán của Ngân hàng ĐT, Ngân hàng S không đồng ý bởi:
- Thư bảo lãnh của S chỉ có giá trị pháp lý khi khoản vay, giao dịch chiết khấu bộ chứng từ của Ngân hàng ĐT là hợp pháp. Khoản vay, việc nhận tài sản bảo đảm cho các khoản cấp tín dụng cho Công ty TS của Ngân hàng ĐT có nhiều sai phạm.
- Không xác định được thời điểm phát sinh hiệu lực của Thư bảo lãnh. Do Thư bảo lãnh thanh toán chỉ phát sinh hiệu lực khi Ngân hàng ĐT đã giải chấp toàn bộ tài sản, hồ sơ tài sản và các hình thức đảm bảo cho Công ty TS theo thỏa thuận và phải bàn giao lại cho S nhưng Ngân hàng ĐT lại chỉ cam kết giải chấp khi đã có Thư bảo lãnh thanh toán.
Theo Ngân hàng S thì 25.000.000 cổ phần mang tên bà Phạm Thị Diệu H là không có vì đã bị kê khai khống để thực hiện giao dịch cầm cố tại Ngân hàng ĐT; các tài sản bảo đảm khác chưa được Ngân hàng ĐT thẩm định kỹ càng. Sau khi nhận bàn giao và tái cấu trúc Công ty TS, Ban điều hành mới của Công ty phát hiện nhiều sai phạm do cán bộ thẩm định của Ngân hàng ĐT khi thẩm định cho vay, quản lý tài sản bảo đảm. Vì vậy, S đề nghị Tòa án: xem xét về sai phạm và trách nhiệm của Ngân hàng ĐT và Lãnh đạo Công ty TS đối với các khoản cấp tín dụng vay; thư bảo lãnh thanh toán của Ngân hàng S chưa phát sinh hiệu lực do Ngân hàng ĐT chưa hoàn thành nghĩa vụ giải chấp và bàn giao toàn bộ tài sản, hồ sơ tài sản bảo đảm đã quy định tại Biên bản thỏa thuận.
Công ty Cổ phần Thủy sản HN - CT (Công ty TS) trình bày: Công ty Cổ phần Thủy sản BA đổi tên thành Công ty Cổ phần Thủy sản HN - CT từ năm 2015. Tháng 2/2012, S tiến hành tái cấu trúc công ty cả về tổ chức và hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời thanh toán các khoản nợ cũ cho Công ty TS. Sau đó, S phát hiện việc bà Diệu H thế chấp 25.000.000 cổ phần thuộc sở hữu của bà cho 03 đơn vị là Ngân hàng ĐT, Ngân hàng PT Việt Nam và Công ty HM dẫn đến việc tranh chấp khi sang tên Công ty đối với việc sở hữu cổ phần này.
Khi mới tiếp quản Công ty, S đã đồng ý phát hành bảo lãnh khoản nợ của Công ty TS khi đó nhằm giải chấp số cổ phần của bà H và dùng cổ phần này tham gia tái cấu trúc Công ty. Hiện bà H không còn là cổ đông của Công ty TS và không còn là người điều hành của Công ty. Công ty TS cho rằng việc bảo lãnh của S cho Công ty xuất phát từ việc sở hữu 25.000.000 cổ phần của bà H nên phải làm rõ việc sở hữu và thế chấp số cổ phần này.
Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2017/KDTM-ST của TAND quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội đã xét xử và quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của của Ngân hàng ĐT đối với Ngân hàng S.
2. Buộc Ngân hàng S thanh toán trả cho Ngân hàng ĐT theo hợp đồng số 411/2010/HĐ; và số 530/20/HĐ và hợp đồng tín dụng ngắn hạn và hợp đồng chiết khấu bộ chứng từ đã ký giữa Ngân hàng ĐT với Công ty TS là 382.281.064.571 theo nội dung Thư bảo lãnh thanh toán số 079.2012/SHB.HO do S phát hành. S phải tiếp tục chịu lãi suất nợ quá hạn của khoản nợ nêu trên theo mức lãi suất quy định tại hợp đồng tín dụng đối với khoản nợ gốc.
Câu 2: Những điểm chưa phù hợp trong phán quyết của Tòa án và hướng giải quyết:
1. Đối với các khoản vay tại các Hợp đồng tín dụng ngắn hạn giữa Ngân hàng ĐT và Công ty TS.
Tòa án quyết định S còn phải tiếp tục chịu lãi suất nợ quá hạn của khoản nợ nêu trên theo mức lãi suất quy định tại hợp đồng tín dụng đối với khoản nợ gốc nhưng không yêu cầu nguyên đơn cung cấp các thông báo của ngân hàng về việc điều chỉnh về lãi suất theo từng thời kỳ để xem xét, xác định việc tính lãi suất của nguyên đơn có sự thay đổi, điều chỉnh theo thỏa thuận theo quy định tại khoản 3 Điều 91 Luật các Tổ chức tín dụng 2010 hay không mà đã chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về mức lãi là thiếu sót trong việc thu thập chứng cứ và không đủ cơ sở, không đảm bảo giải quyết đúng đắn vụ án, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của đương sự, của người thế chấp tài sản bảo đảm và của người bảo lãnh.
2. Về hiệu lực của Thư bảo lãnh
Thư bảo lãnh có hiệu lực kể từ khi bên nhận bảo lãnh giải chấp toàn bộ tài sản, hồ sơ tài sản và các hình thức bảo đảm cho bên được bảo lãnh theo nội dung Biên bản làm việc và phải bàn giao lại cho S nhưng Biên bản thỏa thuận ngày 23/8/2012 Ngân hàng ĐT chỉ cam kết giải chấp khi đã có Thư bảo lãnh thanh toán nên không xác định được thời điểm phát sinh hiệu lực của Thư bảo lãnh. Do đó, thư bảo lãnh thanh toán của Ngân hàng S chưa phát sinh hiệu lực do Ngân hàng ĐT chưa hoàn thành nghĩa vụ giải chấp và bàn giao toàn bộ tài sản, hồ sơ tài sản và các hình thức bảo đảm cho Công ty TS theo nội dung đã thống nhất tại Biên bản thỏa thuận ngày 23/8/2012. Tuy nhiên, các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thế chấp, bên thế chấp và nhận thế chấp chưa giải chấp và chưa xoá thế chấp tại Ngân hàng ĐT.
Vì vậy, để xác định thời điểm có hiệu lực của Thư bảo lãnh cần phải xác định và đưa bà H, ông T vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan để ủy thác tư pháp và thu thập chứng cứ, lấy lời khai làm cơ sở xác định thời điểm có hiệu lực của Thư bảo lãnh thì việc giải quyết vụ án mới triệt để và đúng pháp luật.
3. Việc xem xét đánh giá các hồ sơ chiết khấu là cơ sở để xác định số dư nợ thực sự của Công ty TS bởi Ngân hàng S phát hành Thư bảo lãnh có trị giá 215.400.000.000đ (chưa gồm lãi phát sinh từ thời điểm bảo lãnh cho đến khi hoàn tất nghĩa vụ trả nợ vay và không hủy ngang) nhưng việc chưa xác định được các hồ sơ chiết khấu là thật hay giả thì chưa thể xác định được Công ty BA nợ gốc là bao nhiêu, nợ lãi là bao nhiêu để từ đó xác định trách nhiệm bảo lãnh của Ngân hàng S phải trả nợ thay đối với 50% tổng số tiền Công ty BA nợ sau 24 tháng kể từ ngày Thư bảo lãnh có hiệu lực và sau 36 tháng kể từ ngày Thư bảo lãnh có hiệu lực, nếu Công ty TS không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ đối với Ngân hàng ĐT thì Ngân hàng S sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho Công ty 50% giá trị bảo lãnh còn lại (tính đến thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh) ngay khi có văn bản yêu cầu của Ngân hàng ĐT.
4. Do tài sản thế chấp là 25.000.000 cổ phần của bà H đã đem cầm cố và bán cho nhiều tổ chức tín dụng khác nhau nên đã phát sinh tranh chấp về tài sản. Đồng thời, hành vi cầm cố và bán số cổ phần cho nhiều tổ chức tín dụng khác nhau của bà H cũng đang được cơ quan công an điều tra. Do đó, việc Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện và buộc Ngân hàng S phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo Thư bảo lãnh là chưa đủ cơ sở và trái với thỏa thuận của các đương sự, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Câu 3: Đưa ra quan điểm của nhóm về việc giải quyết tranh chấp phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành
Sau đây, chúng em xin đưa ra quan điểm của nhóm về cách giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật hiện hành.
Theo lời khai của các bên, Thư bảo lãnh của ngân hàng S chỉ giá trị pháp lý khi khoản vay, giao dịch chiết khấu bộ chứng từ của Ngân hàng ĐT là hợp pháp. Đồng thời, cũng theo chứng cứ các bên đưa ra, Điều 4 của Thư bảo lãnh quy định: “Thư bảo lãnh có hiệu lực kể từ khi bên nhận bảo lãnh giải chấp toàn bộ tài sản, hồ sơ tài sản và các hình thức bảo đảm cho bên được bảo lãnh theo nội dung Biên bản làm việc ngày 23/8/2012.”
Như vậy, chứng thư bảo lãnh của ngân hàng S chỉ có hiệu lực từ thời điểm ngân hàng ĐT giải chấp toàn bộ tài sản bảo đảm của công ty TS, đồng thời chỉ có giá trị pháp lý khi toàn bộ khoản vay, giao dịch chiết khấu bộ chứng từ của Ngân hàng ĐT là hợp pháp.
Tuy nhiên trên thực tế, khoản vay, giao dịch chiết khấu bộ chứng từ của Ngân hàng ĐT có một số dấu hiệu sai phạm. 25.000.000 cổ phần đứng tên bà Phạm Thị Diệu H là không có thật vì đã bị HĐQT công ty phát hành khống để làm tài sản bảo đảm tại nhiều ngân hàng khác nhau. Như vậy có thể nhận định rằng ngân hàng ĐT đã mắc nhiều sai phạm khi thẩm định cho vay và quản lý tài sản bảo đảm.
Qua phân tích ở trên, ta thấy Ngân hàng ĐT chưa hoàn thành nghĩa vụ giải chấp và bàn giao toàn bộ tài sản, hồ sơ tài sản bảo đảm theo quy định tại biên bản thỏa thuận. Do đó, Thư bảo lãnh thanh toán của Ngân hàng S chưa phát sinh hiệu lực. Như vậy, theo quan điểm của nhóm em, Tòa án cần dựa vào căn cứ trên để bác đơn kiện của ngân hàng S.
Câu 4: Kiến nghị của nhóm về hoàn thiện quy định của pháp luật về bảo lãnh nói chung và bảo lãnh ngân hàng nói riêng
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh nói chung và bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động ngân hàng nói riêng luôn được đặt ra trước yêu cầu của nền kinh tế hội, nhập đặc biệt trong bối cảnh từ khi nước ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới và đàm phán thành công Hiệp định Thương mại tự do EVFTA và Hiệp định bảo hộ đầu tư EVIPA, Việt Nam hiện đang trong quá trình hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới. Liên quan đến vấn đề hoàn thiện quy định của pháp luật, nhóm 4, trên cơ sở nghiên cứu bản án, học tập lĩnh hội kiến thức và tham khảo ý kiến của các chuyên gia, xin đưa ra một số đề xuất như sau:
1. Về hình thức bảo lãnh
BLDS 2015 không đề cập đến hình thức bảo lãnh nói chung, song quy định hiện hành về bảo lãnh ngân hàng có đề cập đến hình thức bảo lãnh gồm thư bảo lãnh hợp đồng bảo lãnh. Đối với hợp đồng bảo lãnh, khi có sự thỏa thuận giữa các bên tham gia quan hệ bảo lãnh, nội dung của văn bản này đã được thống nhất được ý chí của các bên trong việc đưa ra các cam kết. Đối với thư bảo lãnh, pháp luật hiện hành quy định đó là cam kết đơn phương của tổ chức tín dụng nhưng vẫn chưa thể hiện được ý chí của các chủ thể tham gia quan hệ bảo lãnh. Do đó, việc xác định những nội dung cam kết tại thư bảo lãnh chưa có sự thống nhất, chẳng hạn về thời điểm có hiệu lực của thư bảo lãnh, khi tổ chức tín dụng phát hành văn bản này chỉ thể hiện ý chí chấp thuận của tổ chức tín dụng mà chưa có ý kiến của bên nhận bảo lãnh. Vì vậy, để có quy định chính xác đối với hai trường hợp với hiệu lực của thư bảo lãnh và hợp đồng bảo lãnh, nhóm 3 thấy rằng cần thiết phải hoàn thiện quy định của pháp luật theo hướng:
- Quy định về hình thức bảo lãnh trong BLDS
- Bổ sung quy định về thời điểm có hiệu lực của cam kết bảo lãnh ngân hàng theo hướng: Thời điểm có hiệu lực của cam kết Bảo lãnh theo thỏa thuận của các bên trường hợp không có thỏa thuận cam kết bảo lãnh có hiệu lực từ ngày tổ chức tín dụng phát hành bảo lãnh
Khi tổ chức tín dụng phát hành thư bảo lãnh có nghĩa là trách nhiệm bảo lãnh của tổ chức tín dụng đã được xác lập. Tổ chức tín dụng phát hành bảo lãnh là sự cam kết và chịu trách nhiệm trước bên nhận bảo lãnh về những lỗi của bên được bảo lãnh. Tuy nhiên, quy định rõ về thời điểm có hiệu lực của thư bảo lãnh sẽ tránh cho các bên tham gia quan hệ bảo lãnh xảy ra những vụ xung đột tranh chấp không đáng có
2. Về thời hạn, thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
Thông thường, việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của bên bảo lãnh phát sinh khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh vi phạm cam kết. Trước thời hạn đó, nếu các bên không có thỏa thuận thì bên nhận bảo lãnh không được yêu cầu thực hiện nghĩa vụ.
Theo quy định của Bộ luật dân sự, việc thực hiện nghĩa vụ phát sinh khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, như vậy có thể hiểu rằng thời điểm bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh là khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ đã cam kết. Như vậy, thời điểm thực hiện nghĩa vụ được hiểu là khi bên được bảo lãnh đến thời hạn phải thực hiện nghĩa vụ mà không thực hiện nghĩa vụ của mình. Có nghĩa là khi đó, bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng. Có hai trường hợp có thể xảy ra:
- Thời điểm khi bên được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ hoặc;
- Thời điểm khi bên được bảo lãnh thực hiện không đúng nghĩa vụ. Ở trường hợp hai, thời điểm này sẽ khác với thời hạn mà bên được bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ được quy định tại Bộ luật dân sự. Ví dụ: bên A (bên nhận bảo lãnh) và bên B (bên được bảo lãnh) ký một hợp đồng xây dựng nhà có sự bảo lãnh của tổ chức tín dụng X (bên bảo lãnh) để thực hiện hợp đồng xây nhà. Đến một thời hạn hoàn thành phần móng ngôi nhà theo hợp đồng, tuy nhiên trong quá trình thực hiện nghĩa vụ của mình (chưa đến thời hạn), B làm sai thiết kế như đã cam kết. Khi bên A có đủ cơ sở cho rằng B đã vi phạm hợp đồng, họ có quyền yêu cầu X phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Như vậy, thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh ở đây là khi bên được bảo lãnh thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình như cam kết mà không chỉ là đến thời hạn theo như quy định tại Bộ luật dân sự
Nhóm 3 đề xuất hướng xử lý nội dung này như sau:
- Thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh: Khi bên được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng đã cam kết, nội dung này cần được cụ thể hóa trong hai trường hợp
+ Đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ hoặc;
+ Chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ nhưng bên được bảo lãnh thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết
- Thời hạn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh: Pháp luật dân sự về bảo lãnh cần thiết phải bổ sung nội dung này, theo đó, thời hạn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh do các bên thỏa thuận. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cần định cụ thể là trong bao nhiêu ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu về thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
3. Về bản chất của bảo lãnh ngân hàng
Việc xác định đúng bản chất của bảo lãnh ngân hàng sẽ là cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo lãnh nhưng chủ thể đối tượng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cũng như xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ bảo lãnh.
Trước hết khi sinh xếp hoàn thiện khái niệm bảo lãnh ngân hàng, chúng ta phải hiểu sự cam kết trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng là mối quan hệ hợp đồng giữa các chủ thể tham gia quan hệ bảo lãnh. Bên cạnh đó, việc hiểu đúng bản chất của bảo lãnh ngân hàng sẽ nhằm xác định rõ phạm vi điều chỉnh của quy định về bảo lãnh có bao gồm hình thức tín dụng chứng từ hay không.
Căn cứ vào bản chất của bảo lãnh, nhằm hoàn thiện khái niệm bảo lãnh ngân hàng trong điều kiện hiện nay, từ đó xây dựng các quy định liên quan về bảo lãnh ngân hàng, nhóm 3 cho rằng khái niệm bảo lãnh ngân hàng cần được hoàn thiện theo hướng: Bảo lãnh ngân hàng là việc tổ chức tín dụng cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ khi bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết.
Việc xây dựng khái niệm bảo lãnh ngân hàng nói trên sẽ định hướng cho việc xây dựng các quy định liên quan về bảo lãnh một cách rõ ràng và tổng thể hơn.
4. Về chủ thể của bảo lãnh
Qua quá trình áp dụng cho thấy, biện pháp bảo lãnh trong BLDS năm 2015 bộc lộ những hạn chế cơ bản sau:
Thứ nhất, BLDS thiếu các quy định cần thiết nhằm bảo vệ bên bảo lãnh, ví dụ như: Quy định về việc bên nhận bảo lãnh có nghĩa vụ phải thông tin đối với bên bảo lãnh (tư vấn hoặc cảnh báo) về giá trị của nghĩa vụ bảo lãnh, khả năng tài chính của bên được bảo lãnh…
Thứ hai, BLDS thiếu các quy định về điều kiện đối với bên bảo lãnh, trong khi khả năng bên bảo lãnh thực hiện đầy đủ, đúng cam kết bảo lãnh là một nội dung đặc biệt quan trọng khi áp dụng biện pháp bảo lãnh. Cụ thể là các quy định về khả năng thanh toán nợ của bên bảo lãnh
Do đó cần bổ sung một số quy định về bảo lãnh mà BLDS còn thiếu như:
- Các quy định nhằm bảo vệ người bảo lãnh
- Quy định về việc bên có quyền phải có nghĩa vụ thông tin cho bên bảo lãnh về giá trị của nghĩa vụ được bảo lãnh, khả năng tài chính của bên được bảo lãnh
- Điều kiện đối với bên bảo lãnh, trong đó đặc biệt là khả năng thanh toán nợ
- Ngoài ra, cần rà soát, bãi bỏ các quy định chưa thật sự hợp lí trong chế định bảo lãnh như: Không thể quy định tùy nghi là “các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh” (khoản 2 Điều 335 BLDS). Vì về nguyên tắc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp bên được bảo lãnh đã dùng toàn bộ tài sản của mình để thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh
5. Về biện pháp bảo lãnh
BLDS cũng cần quy định rõ ràng các vấn đề có liên quan đến biện pháp bảo lãnh như:
- Các trường hợp làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt đối với biện pháp bảo lãnh, giới hạn của biện pháp bảo lãnh so với giá trị của nghĩa vụ được bảo lãnh
- Hậu quả pháp lý trong trường hợp bên bảo lãnh không có tài sản để bù trừ nghĩa vụ được bảo lãnh.
Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU
Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395
.png)
0 nhận xét