BÀI TẬP LỚN MÔN LUẬT HÀNH CHÍNH HLU
tháng 9 22, 2023ĐỀ BÀI:
Sau 11 ngày áp dụng Nghị định 100/2019/NĐ-CP, lực lượng CSGT thành phố Hà Nội đã xử lý hơn 52. 671 trường hợp vi phạm, tạm giữ gần 2.000 phương tiện và tước quyền sử dụng giấy phép lái xe 2.374 trường hợp, tạm giữ 152 ô tô, 1.777 xe máy, 11.706 bộ giấy tờ xe.
Theo thống kê, hành vi vi phạm phổ biến: không đội mũ bảo hiểm 32.609 trường hợp; 4.472 trường hợp dừng đỗ xe sai quy định; 4.711 trường hợp vượt đèn đỏ; 359 trường hợp vi phạm nồng độ cồn.
Nguồn (15:11 - 12/01/2020 Thanh Niên Online https://thanhnien.vn/thoi-su/ha-noi-xu-ly-359-luot-vi-pham-nong-do-con-sau-11-ngay-1171094)
CÂU HỎI:
1. Phân tích các yếu tố cấu thành các hành vi vu phạm hành chính được thống kê trên?
2. Phân tích thủ tục xử phạt đối với hành vi vi phạm nồng độ cồn khi điều khiển xe ô tô?
3. Hãy đề xuất các giải pháp nhằm giảm thiểu các hành vi vi phạm được thống kê ở trên, đặc biệt là hành vi vi pham vi phạm của lái xe vi phạm nồng độ cồn?
A. MỞ ĐẦU
Ngày 30/12/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định 100/2019/NĐ-CP quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt có hiệu lực từ ngày 1/1/2020, thay thế Nghị định 46/2016/NĐ-CP. Nghị định 100 không chỉ phục vụ thực thi Luật phòng chống tác hại của rượu bia mà còn bổ sung, quy định nhiều hành vi liên quan đến Luật giao thông đường bộ và Luật đường sắt khi thực tế phát sinh nhiều trường hợp đòi hỏi phải có quy định của pháp luật phù hợp hơn. Nghị định 100 có nhiều điểm mới so với Nghị định 46, tăng nặng chế tài xử phạt đối với nhiều hành vi vi phạm để tăng tính răn đe, phòng ngừa. Để có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề này, sau đây em xin trình bày về đề bài số 04 – liên quan đến việc xử phạt một số hành vi vi phạm phổ biến lĩnh vực trong giao thông đường bộ, đặc biệt là vi phạm về nồng độ cồn.
B. NỘI DUNG
1. Phân tích các yếu tố cấu thành các hành vi vi phạm hành chính được thống kê trên?
Theo Luật Xử lí vi phạm hành chính 2012: VPHC là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt VPHC.
Để xác định một hành vi có phải là VPHC hay không, cần xác định các yếu tố cấu thành vi phạm, bao gồm bốn yếu tố: mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể.
Với các hành vi VPHC đề bài đưa ra: không đội mũ bảo hiểm, dừng đỗ xe trái quy định, vượt đèn đỏ, vi phạm nồng độ cồn, sự khác biệt trong cấu thành thể hiện chủ yếu qua mặt khách quan và mặt chủ quan. Còn chủ thể, khách thể nhìn chung là giống nhau:
Về chủ thể, chủ thể VPHC nêu trên là các cá nhân có năng lực trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật hành chính.
- Những người vi phạm từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi khi thực hiện những hành vi có lỗi cố ý.
- Những người từ đủ 16 tuổi trở lên sẽ phải gánh chịu trách nhiệm hành chính cho mọi hành vi VPHC của mình mà không cần phải căn cứ vào ý chí chủ quan của người đó.
Những người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hành chính nhẹ hơn những người từ đủ 18 tuổi trở lên. Trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi VPHC bị phạt tiền thì mức tiền không quá ½ mức tiền phạt áp dụng đối với người thành niên.
Về khách thể, các hành vi trên xâm hại đến trật tự quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
* Hành vi không đội mũ bảo hiểm:
- Mặt khách quan:
+ Hành vi trái pháp luật: không đội mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy.
Theo Luật giao thông đường bộ 2008: Người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy, xe đạp máy phải đội mũ bảo hiểm có cài quai đúng quy cách.
Tùy từng trường hợp cụ thể, hành vi không đội mũ bảo hiểm sẽ bị xử phạt khác nhau. Mức phạt tiền từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng đối với người điều khiển, người ngồi trên xe không đội mũ bảo hiểm hoặc chở người ngồi trên xe không đội mũ bảo hiểm hoặc đối với người được chở không đội mũ bảo hiểm.
+ Phương tiện: xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), xe đạp máy (kể cả xe đạp điện). Chỉ có những người điều khiển và người được chở trên các loại phương tiện trên mới bị phạt nếu không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông.
- Mặt chủ quan:
+ Lỗi: các chủ thể thực hiện hành vi không đội mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy có lỗi.
Các chủ thể vi phạm không đội mũ bảo hiểm đều biết hoặc phải biết hành vi của mình là trái pháp luật, bởi lẽ, khi các chủ thể tham gia thi bằng lái xe đều được học Luật giao thông đường bộ; đồng thời, quy định phải đội mũ bảo hiểm khi đi xe mô tô, xe gắn máy cũng được đưa vào tuyên truyền, giảng dạy một cách rộng rãi trong trường học và trên phương tiện truyền thông đại chúng. Các chủ thể đã biết hành vi của mình là trái pháp luật mà vẫn thực hiện, do đó đây là hành vi có lỗi.
* Hành vi dừng đỗ xe sai quy định:
- Mặt khách quan:
+ Hành vi trái pháp luật: dừng, đỗ xe sai quy định của pháp luật.
Theo Luật giao thông đường bộ 2008, có các hành vi dừng, đỗ xe bị cấm như: dừng, đỗ xe trên cầu, gầm cầu vượt, ở nơi dừng của xe buýt, trên phần đường dành cho người đi bộ, tại nơi phần đường có bề rộng chỉ đủ cho một làn xe…; dừng đỗ xe không có tín hiệu báo cho người điều khiển phương tiện khác biết, mở cửa xuống xe khi chưa đảm bảo điều kiện an toàn…; dừng, đỗ, để xe ở lòng đường, hè phố trái quy định…
Đối với từng hành vi vi phạm, từng loại xe khác nhau thì có mức xử phạt khác nhau. Người điều khiển xe ô tô vi phạm quy định dừng đỗ xe có thể bị phạt tiền tối đa đến 12.000.000 đồng. Đối với người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện) vi phạm quy định dừng đỗ có thể bị phạt tiền tối đa đến 5.000.000 đồng. Người điều khiển máy kéo, xe máy chuyên dùng vi phạm quy định dừng đỗ có thể bị phạt tiền tối đa đến 8.000.000 đồng. Người điều khiển xe đạp, xe đạp máy (kể cả xe đạp điện), xe thô sơ khác vi phạm quy định dừng đỗ có thể bị phạt tiền tối đa đến 100.000 đồng.
+ Phương tiện: xe ô tô và các loại xe tương tự xe ô tô, xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy, máy kéo, xe máy chuyên dùng, xe đạp, xe đạp máy (kể cả xe đạp điện), xe thô sơ. Chỉ có những người điều khiển các loại phương tiện trên mới có thể bị phạt khi dừng, đỗ xe sai quy định.
- Mặt chủ quan:
+ Lỗi: những chủ thể thực hiện hành vi dừng, đỗ xe sai quy định có lỗi. Bởi những người khi thực hiện hành vi này ở trong trạng thái có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình nhưng đã vô tình, thiếu thận trọng không nhận thức được hành vi của mình gây nguy hiểm cho xã hội (lỗi vô ý) hoặc nhận thức được điều đó nhưng vẫn cố tình thực hiện (lỗi cố ý).
* Hành vi vượt đèn đỏ:
- Mặt khách quan:
+ Hành vi trái pháp luật: không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông.
Theo Luật giao thông đường bộ 2008, tín hiệu giao thông có ba màu: xanh, đỏ, vàng, trong đó tín hiệu đỏ là cấm đi; người tham gia giao thông phải chấp hành hiệu lệnh của hệ thống báo hiệu đường bộ.
Từng hành vi vi phạm, từng loại xe khác nhau thì có mức xử phạt khác nhau. Ví dụ, người điều khiển xe ô tô không chấp hành hiệu lệnh đèn tín hiệu giao thông sẽ bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng; người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy không chấp hành hiệu lệnh đèn tín hiệu giao thông sẽ bị phạt tiền từ 600.000 đồng đến 1.000.000 đồng...
- Mặt chủ quan:
+ Lỗi: các chủ thể thực hiện hành vi không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông có lỗi. Bởi những người thực hiện hành vi này ở trong trạng thái có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình nhưng đã vô tình, thiếu thận trọng (lỗi vô ý) hoặc cố tình thực hiện hành vi đó (lỗi cố ý).
+ Trong một số trường hợp, hành vi không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông còn có dấu hiệu mục đích. Ví dụ như cố tình vượt đèn đỏ để đến kịp giờ thi,...
* Hành vi vi phạm nồng độ cồn:
- Mặt khách quan:
+ Hành vi trái pháp luật: Vi phạm nồng độ cồn khi điều khiển phương tiện giao thông.
Theo Luật giao thông đường bộ 2008, một trong các hành vi bị cấm khi tham gia giao thông là điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn. Theo Nghị định 100/2019/NĐ-CP, không chỉ có xe ô tô, máy kéo, xe máy mà cả người điều khiển xe đạp cũng bị xử phạt nếu điều khiển phương tiện giao thông vi phạm nồng độ cồn.
Đối với từng hành vi vi phạm, từng loại xe và nồng độ cồn trong máu hoặc hơi thở khác nhau thì có mức xử phạt khác nhau. Ví dụ, người điều khiển xe ô tô vi phạm nồng độ cồn có thể bị phạt tiền tối đa 40.000.000 đồng và tước giấy phép lái xe 24 tháng. Người điều khiển xe máy vi phạm nồng độ cồn có thể bị phạt tiền tối đa 8.000.000 và tước giấy phép lái xe 24 tháng. Người điều khiển xe đạp vi phạm nồng độ cồn có thể bị phạt tiền tối đa 600.000 đồng…
+ Phương tiện: xe ô tô và các loại xe tương tự xe ô tô, xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy, máy kéo, xe máy chuyên dùng, xe đạp, xe đạp máy (kể cả xe đạp điện), xe thô sơ. Chỉ những người điều khiển các loại phương tiện trên mới bị phạt nếu vi phạm nồng độ cồn.
- Mặt chủ quan:
+ Lỗi: các chủ thể vi phạm nồng độ cồn khi điều khiển phương tiện giao thông có lỗi. Bởi những người thực hiện hành vi này có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi nhưng đã thiếu thận trọng hoặc tự tin là mình có thể ngăn chặn, không gây nguy hiểm cho xã hội (lỗi vô ý) hay nhận thức được nguy hiểm nhưng vẫn cố tình thực hiện (lỗi cố ý). Ví dụ, sau khi đi nhậu với bạn bè vẫn tự lái xe là hành vi có lỗi.
2. Phân tích thủ tục xử phạt đối với hành vi vi phạm nồng độ cồn khi điều khiển xe ô tô?
Hành vi vi phạm nồng độ cồn khi điều khiển xe ô tô bị xử phạt theo quy định của Nghị định 100/2019/NĐ-CP quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt. Cụ thể:
Điều 5: Xử phạt người điều khiển xe ô tô và các loại xe tương tự xe ô tô…
- Điểm c khoản 6: Phạt tiền từ 6.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn nhưng chưa vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc chưa vượt quá 0,25 miligam/1 lít khí thở;
- Điểm c khoản 8: Phạt tiền từ 16.000.000 đồng đến 18.000.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam đến 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí thở;
- Điểm a khoản 10: Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở.
Từ các căn cứ pháp lí trên, ta thấy hành vi vi phạm nồng độ cồn khi điều khiển xe ô tô có chủ thể vi phạm là cá nhân và có mức phạt lớn hơn 250.000 đồng.
Căn cứ khoản 1 Điều 57, Luật Xử lí vi phạm hành chính 2012: “Xử phạt vi phạm hành chính có lập biên bản được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính của cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không thuộc trường hợp quy định tại đoạn 1 khoản 1 Điều 56 của Luật này”, hành vi vi phạm nồng độ cồn khi điều khiển xe ô tô bị xử phạt theo thủ tục xử phạt VPHC có lập biên bản.
* Trình tự xử phạt: gồm 3 bước
- Lập biên bản VPHC: (Điều 58 Luật Xử lí vi phạm hành chính 2012)
Khi phát hiện hành vi vi phạm nồng độ cồn khi điều khiển xe ô tô, người có thẩm quyền đang thi hành công vụ phải kịp thời lập biên bản. Biên bản phải ghi rõ thời gian, địa điểm lập; họ, tên, chức vụ người lập; họ, tên, địa chỉ, nghề nghiệp người vi phạm; thời gian, địa điểm xảy ra vi phạm; hành vi vi phạm; biện pháp ngăn chặn vi phạm và bảo đảm việc xử lí; tình trạng phương tiện bị tạm giữ; lời khai của người vi phạm; quyền và thời hạn giải trình của người vi phạm; cơ quan tiếp nhận giải trình… Trường hợp người vi phạm cố tình trốn tránh hoặc vì lí do khách quan mà không ký vào biên bản thì biên bản phải có chữ ký của đại diện chính quyền cơ sở nơi xảy ra vi phạm hoặc của hai người chứng kiến.
Biên bản phải được lập ít nhất 02 bản, phải được người lập biên bản và người vi phạm ký; trường hợp người vi phạm không ký được thì điểm chỉ; nếu có người chứng kiến, người bị thiệt hại thì họ cùng phải ký vào biên bản; trường hợp biên bản gồm nhiều tờ, thì những người nêu trên phải kí vào từng tờ. Nếu những người trên từ chối ký thì người lập biên bản phải ghi rõ lý do vào biên bản.
Biên bản VPHC lập xong phải giao cho người vi phạm 01 bản; trường hợp VPHC không thuộc thẩm quyền hoặc vượt quá thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì biên bản phải được chuyển ngay đến người có thẩm quyền xử phạt để tiến hành xử phạt.
- Sau khi lập biên bản VPHC, tùy từng trường hợp cụ thể, người có thẩm quyền xử phạt cần thực hiện một, một số hoặc toàn bộ công việc sau:
+ Xác minh tình tiết vụ việc: (Điều 59 Luật Xử lí vi phạm hành chính) nhằm xác định có VPHC hay không, cá nhân vi phạm có lỗi không, có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ không, tính chất mức độ thiệt hại gây ra…
+ Giải trình: (Điều 61 Luật Xử lí vi phạm hành chính)
Đối với hành vi vi phạm nồng độ cồn khi điều khiển xe ô tô mà pháp luật quy định áp dụng hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép lái xe có thời hạn hoặc áp dụng mức phạt tiền tối đa là 40.000.000 đồng thì người vi phạm có quyền giải trình trực tiếp hoặc bằng văn bản với người có thẩm quyền xử phạt. Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm xem xét ý kiến giải trình của người vi phạm trước khi ra quyết định xử phạt. Thủ tục giải trình được pháp luật quy định.
- Ra quyết định xử phạt: (Điều 67, 68 Luật Xử lí vi phạm hành chính 2012)
Trường hợp một cá nhân thực hiện nhiều hành vi VPHC bị xử phạt cùng một lần thì chỉ ra 1 quyết định xử phạt, quyết định hình thức, mức xử phạt với từng hành vi VPHC. Trường hợp nhiều cá nhân cùng thực hiện một hành vi VPHC thì có thể ra 1 hoặc nhiều quyết định xử phạt quyết định hình thức, mức xử phạt với từng cá nhân. Quyết định xử phạt có hiệu lực kể từ ngày ký, trừ trường hợp trong quyết định quy định ngày có hiệu lực khác. Quyết định xử phạt VPHC bao gồm các nội dung được quy định tại điều 68 Luật Xử lí vi phạm hành chính 2012.
* Thẩm quyền xử phạt:
Theo quy định của Luật Xử lí vi phạm hành chính 2012 và Nghị định 100/2019, các chủ thể có thẩm quyền xử phạt người điều khiển xe ô tô vi phạm nồng độ cồn là:
1. Chủ tịch UBND các cấp có thẩm quyền xử phạt đối với hành vi vi phạm trong phạm vi quản lý của địa phương mình.
- Chủ tịch UBND cấp xã có quyền: Phạt tiền đến 4.000.000 đồng và tạm giữ phương tiện. (trường hợp người chưa thành niên điều khiển ô tô vi phạm nồng độ cồn)
- Chủ tịch UBND cấp huyện có quyền: Phạt tiền đến 20.000.000 đồng, tạm giữ phương tiện và tước quyền sử dụng giấy phép lái xe có thời hạn.
- Chủ tịch UBND cấp tỉnh có quyền: Phạt tiền đến 40.000.000 đồng, tạm giữ phương tiện và tước quyền sử dụng giấy phép lái xe có thời hạn.
2. CSGT trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao có thẩm quyền xử phạt đối với hành vi vi phạm nồng độ cồn khi điều khiển xe ô tô như sau:
- Trưởng Công an cấp huyện; Trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục CSGT; Trưởng phòng Công an cấp tỉnh gồm Trưởng phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Trưởng phòng CSGT, Trưởng phòng CSGT đường bộ - đường sắt; Thủ trưởng đơn vị Cảnh sát cơ động từ cấp đại đội trở lên, có quyền: Phạt tiền đến 8.000.000 đồng, tạm giữ phương tiện và tước quyền sử dụng giấy phép lái xe có thời hạn.
- Giám đốc Công an cấp tỉnh có quyền: Phạt tiền đến 20.000.000 đồng, tạm giữ phương tiện và tước quyền sử dụng giấy phép lái xe có thời hạn.
- Cục trưởng Cục CSGT, Cục trưởng Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội có quyền: Phạt tiền đến 40.000.000 đồng, tạm giữ phương tiện và tước quyền sử dụng giấy phép lái xe có thời hạn.
Như vậy, trong trường hợp Chiến sĩ CSGT đang làm nhiệm vụ phát hiện người điều khiển xe ô tô vi phạm quy định nồng độ cồn mà không thuộc một trong các chủ thể nêu trên thì chiến sĩ CSGT đó không có thẩm quyền xử phạt mà phải chuyển biên bản đến người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt. Việc xử phạt do người có thẩm quyền đầu tiên thụ lí thực hiện.
* Thời hạn, thời hiệu:
- Thời hạn ra quyết định xử phạt: Theo quy định hiện hành, thời hạn ra quyết định xử phạt thông thường là 7 ngày và trong trường hợp đặc biệt có thể được kéo dài nhưng không được quá 60 ngày.
- Thời hạn chấp hành quyết định xử phạt: Quyết định xử phạt phải được cá nhân vi phạm chấp hành trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày được giao quyết định xử phạt (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác). Với những đối tượng có thái độ cố tình chống đối khi xử lí cần chú ý kết hợp áp dụng các biện pháp ngăn chặn và đảm bảo việc xử phạt nhằm đảm bảo cho việc tổ chức cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt.
- Thời hiệu xử phạt: Thời hiệu xử phạt VPHC là 1 năm đối với VPHC thông thường. Trong khoảng thời gian tính thời hiệu, nếu cá nhân thực hiện VPHC cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt thì thời hiệu xử phạt VPHC được tính lại kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử phạt.
- Thời hiệu thi hành quyết định xử phạt: Thời hiệu thi hành quyết định xử phạt VPHC là 1 năm kể từ ngày ban hành quyết định xử phạt. Trong trường hợp cá nhân cố tình trốn tránh, trì hoãn thì thời hiệu được tính lại kể từ thời điểm chất dứt hành vi trốn tránh, trì hoãn.
3. Hãy đề xuất các giải pháp nhằm giảm thiểu các hành vi vi phạm được thống kê ở trên, đặc biệt là hành vi vi phạm của lái xe vi phạm nồng độ cồn?
Hiện nay, nước ta cơ bản đã có đầy đủ quy định của pháp luật điều chỉnh hành vi của người tham gia giao thông. Tuy nhiên, ý thức và văn hóa khi tham giao thông của người dân Việt Nam vẫn còn rất kém. Điều đó thể hiện ở số liệu các trường hợp vi phạm về không đội mũ bảo hiểm, dừng đỗ xe sai quy định, vượt đèn đỏ và vi phạm nồng độ cồn như đề bài đã trích dẫn. Để giảm thiểu tình trạng này, em xin đưa ra một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất, cần có chế tài xử phạt hợp lý, có tính răn đe.
Thói quen, ý thức tham gia giao thông là thứ đã hình thành từ lâu, nó ăn sâu vào trong tiềm thức của mỗi người, khó mà có thể thay đổi trong ngày một ngày hai chỉ qua những lời tuyên truyền, khẩu hiệu chung chung. Vì thế, một chế tài nghiêm khắc là cần thiết để thiết lập khuôn khổ, thói quen mới cho mọi người. Khi vi phạm có mức phạt cao, người dân sẽ thận trọng hơn trong việc chấp hành quy định khi tham gia giao thông để tránh bị thiệt hại về kinh tế.
Thứ hai, cần tổ chức thi hành pháp luật một cách nghiêm chỉnh trên thực tế.
Quy định của pháp luật nghiêm khắc nhưng trên thực tế thi hành không đến nơi đến chốn thì cũng không có tác dụng, người dân vẫn cứ “nhờn” luật, coi thường pháp luật. Thực tế, ở nhiều nơi, việc kiểm tra, giám sát thực thi pháp luật chỉ diễn ra trong một vài ngày đầu ra quân, hay trong đợt thi đua, phát động phong trào rồi sau đó lại nới lỏng. Vì thế người dân chỉ chấp hành một cách hình thức khi có kiểm tra, còn sau đó lại “ngựa quen đường cũ”. Muốn cho pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh trên thực tế, cần phải tiến hành tổ chức kiểm tra, giám sát thường xuyên, liên tục, tránh hình thức và bệnh phong trào.
Thứ ba, cần đẩy mạnh kiểm tra, giám sát việc áp dụng pháp luật của các chiến sĩ CSGT làm nhiệm vụ, tránh tình trạng nhũng nhiễu người dân.
Ở một số tỉnh, ví dụ như Hải Dương, CSGT được coi như “đặc sản” với mỗi lái xe đi qua đây vì tình trạng nhũng nhiễu người dân. “Đút lót” tiền cho CSGT nhiều khi đã trở thành luật bất thành văn với người dân. Tình trạng CSGT nhũng nhiễu, vòi tiền người dân làm giảm uy tín, lòng tin của người dân với pháp luật, với nhà nước, với các chiến sĩ công an nhân dân, dẫn đến tình trạng người dân coi thường pháp luật. Nếu tình trạng này tiếp tục tiếp diễn, người dân sẽ cho rằng, chỉ cần “đút lót” cho chiến sĩ cảnh sát một ít tiền là sẽ không bị xử phạt. Vì thế, pháp luật không phát huy tác dụng, không có tính răn đe.
Thứ tư, cần đẩy mạnh công tác giáo dục pháp luật về giao thông, đặc biệt là trong trường học.
Cha ông ta có câu: “Uốn cây từ thuở còn non/ Dạy con từ thuở con còn bi bô”. Trẻ nhỏ thì dễ dạy, những điều đã được rèn thành thói quen từ khi còn nhỏ thì sẽ dễ dàng theo người ta đi suốt cuộc đời. Vì thế, việc giáo dục tuân thủ pháp luật về giao thông cần được thực hiện ngay từ khi còn nhỏ. Phải tạo cho trẻ em thói quen đội mũ bảo hiểm khi được cha mẹ chở trên xe mô tô, xe gắn máy, không được vượt đèn đỏ… Trách nhiệm này thuộc về gia đình và nhà trường. Tuy nhiên, hiện nay, công tác giáo dục pháp luật về giao thông trong các nhà trường chưa được chú trọng, người ta vẫn quan niệm rằng đến trường chỉ để học các môn văn hóa, còn những thứ khác chỉ mang tính hình thức. Nếu công tác này được thực hiện hiệu quả, thậm chí còn có thể thông qua các em nhỏ, tác động đến thói quen khi tham gia giao thông của cha mẹ các em.
Thứ năm, cần đẩy mạnh phổ biến pháp luật tới tất cả người dân.
Hiện nay, vẫn có những người dân không hề biết tới quy định của pháp luật, họ chỉ tham gia giao thông theo thói quen của mình. Vì thế rất dễ dẫn đến vi phạm pháp luật. Nhiều người khi bị xử phạt còn nói: “Tôi không biết có quy định như thế.” Hiểu biết pháp luật là cơ sở, nền tảng để thực hiện đúng pháp luật. Vì vậy, cần đẩy mạnh tuyên truyền pháp luật trên phương tiện thông tin đại chúng, trên internet, qua người nổi tiếng, qua các đoàn, hội hoặc cử người tuyên truyền tận nhà…
Trong số các hành vi mà đề bài nêu ra, hành vi vi phạm nồng độ cồn có mức độ nguy hiểm cao nhất. Lái xe sau khi uống rượu bia là nguyên nhân gây ra nhiều vụ tai nạn thảm khốc, gây thương vong về người và của. Nghị định 100/2019 ngày 30/12/2019 đã tăng nặng mức xử phạt người vi phạm nồng độ cồn khi điều khiển xe lên mức tối đa 40.000.000 đồng cộng thêm hình phạt tước giấy phép lái xe có thời hạn lên tới 24 tháng. Quy định này cũng phù hợp với Luật Phòng chống tác hại của rượu bia có hiệu lực từ ngày 1/1/2020, trong đó cấm điều khiển phương tiện giao thông mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn .
Theo em, mức xử phạt này đã phù hợp và có sức răn đe. Tuy nhiên, để pháp luật thực sự đi vào đời sống cần có những biện pháp tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát hiệu quả, thường xuyên. Cần thường xuyên tuần tra, kiểm tra nồng độ cồn đối với các lái xe, đặc biệt là vào buổi tối và các ngày lễ tết. Thực tế đã cho thấy, trong những ngày đầu triển khai thực hiện quy định này, số lượng người điều khiển xe sau khi uống rượu bia đã giảm hẳn, số lượng người tập trung ở các quán nhậu sau giờ tan tầm cũng giảm đi đáng kể.
Về lâu dài, cần có những biện pháp để thay đổi thói quen sử dụng rượu bia của người dân. Người dân cần thay đổi văn hóa ép rượu, ép bia trên bàn tiệc, thay đổi quan niệm cho rằng uống được nhiều rượu, bia là đáng tự hào, đáng khoe khoang. Luật Phòng chống tác hại của rượu bia đã cấm hành vi xúi giục, kích động, lôi kéo, ép buộc người khác uống rượu bia. Tuy nhiên, để thực sự có hiệu quả thì cần phải có các văn bản hướng dẫn thi hành quy định này. Các cơ quan chức năng cần thường xuyên thanh, kiểm tra việc thực hiện không bán rượu bia cho người dưới 18 tuổi, xử phạt những chủ cửa hàng vi phạm. Người thân trong gia đình không được cho người dưới 18 tuổi uống rượu, bia. Mỗi người cha, người mẹ cần là tấm gương cho con cái học tập, không nên uống say xỉn trước mặt con cái.
Đối với những người uống rượu bia tại các hàng quán, sau khi uống xong, chủ cửa hàng phải nhắc nhở họ không được lái xe về và giúp đỡ họ gọi xe, sử dụng phương tiện giao thông công cộng hoặc gọi người nhà tới đón. Các cửa hàng, quán rượu cũng đồng thời phải mở thêm dịch vụ trông giữ xe qua đêm cho những người lái xe đến uống rượu bia.
Chính phủ cần có chính sách khuyến khích sản xuất và tiêu thụ đồ uống có nồng độ cồn thấp hoặc không có cồn; ứng dụng các phần mềm cảnh báo nồng độ cồn trên điện thoại thông minh; ứng dụng khóa liên động trên mô-tô, xe máy.
Hơn hết, mỗi người sau khi uống rượu bia, cần phải tự ý thức không được phép lái xe. Bởi vì như vậy là gây nguy hiểm cho mình, và cho cả những người khác, như vậy là không có trách nhiệm với bản thân, với gia đình và cả cộng đồng.
Trên đây là những kiến nghị của em về giải pháp hạn chế vi phạm quy định của pháp luật về giao thông đường bộ, đặc biệt là vi phạm về nồng độ cồn. Để giải pháp có hiệu quả và đi vào thực tế, cần sự phối hợp của nhiều bên, bao gồm các nhà hoạch định chính sách, các nhà thực thi pháp luật và cả những người dân tham gia giao thông. Mỗi người phải tự ý thức được trách nhiệm của mình với xã hội thì mới có thể giảm thiểu được những hành vi này.
C. KẾT LUẬN
Qua phân tích ở trên, chúng ta phần nào thấy được quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đặc biệt là đối với hành vi vi phạm nồng độ cồn khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông, về trình tự, thủ tục, thẩm quyền, thời hiệu xử phạt của các chủ thể có thẩm quyền. Các văn bản quy phạm pháp luật đã tạo thành khung pháp lý cho mọi hoạt động của người dân cũng như hoạt động xử phạt của các chủ thể có thẩm quyền. Tuy nhiên để pháp luật thực sự đi vào thực tiễn thì cần đẩy mạnh tổ chức, kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật, và giáo dục, tuyên truyền pháp luật cho người dân. Chấp hành nghiêm Luật giao thông đường bộ khi tham gia giao thông là góp phần giảm thiểu những vụ tai nạn đáng tiếc xảy ra. Vì vậy, mỗi người chúng ta nên tự giác tìm hiểu và chấp hành vì bản thân, vì gia đình và vì cộng đồng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Văn bản quy phạm pháp luật:
1. Luật Giao thông đường bộ 2008
2. Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012
3. Luật Phòng chống tác hại của rượu bia 2019
4. Nghi định 100/2019/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt
* Giáo trình:
5. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2019.
* Sách tham khảo :
6. PGS.TS. Nguyễn Cảnh Hợp (chủ biên), Bình luận khoa học Luật Xử lý Vi phạm Hành chính năm 2012, NXB Hồng Đức, TP. Hồ Chí Minh, 2017.
7. TS. Nguyễn Thị Thúy (chủ biên), Hướng dẫn học môn Luật Hành chính, NXB Lao động, Hà Nội, 2016.
* Website :
8. Giảm vi phạm giao thông : Đừng ỷ vào việc tăng nặng chế tài
https://vovgiaothong.vn/giam-vi-pham-giao-thong-dung-y-vao-viec-tang-nang-che-tai (Truy cập ngày 14/6/2020)
9. Từ 1-1-2020 : Đã uống rượu bia, không lái xe
https://plo.vn/ban-doc/tu-112020-da-uong-ruou-bia-khong-lai-xe-880688.html (truy cập ngày 14/6/2020)
10. Vì sao nghị định 100 ban hành 2 ngày sau đã áp dụng?
https://tuoitre.vn/vi-sao-nghi-dinh-100-ban-hanh-2-ngay-sau-da-ap-dung-20200107084621983.htm (truy cập ngày 14/6/2020)
Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU
Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395
.png)
0 nhận xét