BÀI TẬP NHÓM MÔN LUẬT DÂN SỰ 1 HLU
tháng 9 22, 2023ĐỀ BÀI: Hãy sưu tầm một bản án sơ thẩm của Tòa án liên quan đến việc giải quyết tranh chấp về xác định các tài sản là di sản thừa kế mà theo quan điểm của nhóm bản án đó chưa phù hợp với quy định của pháp luật, và giải quyết các yêu cầu:
1. Tóm tắt bản án
2. Hãy chỉ ra những điểm chưa phù hợp của phán quyết và giải thích
3. Đưa ra quan điểm của nhóm về giải quyết tranh chấp phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành
4. Từ việc phân tích vụ án, nhóm hãy đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật hiện hành.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong bất kì xã hội có giai cấp nào, thừa kế cũng luôn là vấn đề được coi trọng trong các chế định pháp luật, là hình thức pháp lý chủ yếu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Một người mất đi đương nhiên không thể kéo theo sự mất đi tài sản mà khi còn sống người đó đã nắm giữ, chi phối. Như là một tất yếu, tài sản đó sẽ được dịch chuyển sang cho người còn sống để phát huy giá trị kinh tế, tinh thần tài sản, phục vụ nhu cầu của người hưởng tài sản nói riêng và xã hội loài người nói chung. Nhận thấy được tầm quan trọng của thừa kế, ở Việt Nam, từ những ngày đầu dựng nước, các triều đại Lý, Trần, Lê cũng đã quan tâm đến việc ban hành pháp luật về thừa kế. Trải qua các thời kì khác nhau, trên cơ sở kế thừa, bổ sung, hoàn thiện, những quy định của chế định thừa kế từng bước phù hợp với thực tiễn khách quan. Cũng như các quốc gia trên thế giới, về cơ bản, quy định pháp luật về thừa kế Việt Nam ghi nhận hai hình thức thừa kế: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.
Trong thời gian gần đây, tranh chấp về thừa kế luôn gia tăng và chiếm tỉ trọng lớn trong các tranh chấp dân sự, đặc biệt là các tranh chấp liên quan đến di sản thừa kế. Di sản thừa kế là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong việc làm phát sinh và thực hiện quan hệ dân sự về thừa kế . Giải quyết các tranh chấp về di sản thừa kế trước hết phải xác định đúng khối tài sản chia thừa kế và đưa ra kết quả giải quyết là phân chia di sản thừa kế theo đúng phần mà người thừa kế có quyền được hưởng.
Chính vì các lí do trên mà nhóm em lựa chọn đề bài số 17: “Hãy sưu tầm một bản án sơ thẩm của Tòa án liên quan đến việc giải quyết tranh chấp về xác định các tài sản là di sản thừa kế mà theo quan điểm của nhóm bản án đó chưa phù hợp với quy định của pháp luật, và giải quyết các yêu cầu ở cuối” cho bài tập nhóm này.
Trong quá trình làm bài không thể tránh khỏi những sai sót, nhóm em mong nhận được sự nhận xét, đánh giá, sửa chữa của thầy cô tổ bộ môn Luật Dân sự để qua đó chúng em có thể khắc phục sai sót và hoàn thiện kiến thức cho bản thân!
NỘI DUNG
I. TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ VIỆC
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Khôi, sinh năm 1961
Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Thám, sinh năm 1959
Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Lành – sinh năm 1957, bà Nguyễn Thị Nõn (Ngát) – sinh năm 1965, bà Nguyễn Thị Phượng – sinh năm 1972, cụ Đinh Thị Tý – 90 tuổi, bà Đinh Thị Gái – sinh năm 1933, bà Nguyễn Thị Hiền – sinh năm 1956, bà Nguyễn Thị Tuyết – sinh năm 1958
Theo bản án dân sự sơ thẩm số 09/2013/DS-ST ngày 18 tháng 7 năm 2013 của Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, nội dung vụ việc được tóm tắt như sau: Cụ Nguyễn Văn Hội có hai vợ là cụ Đinh Thị Tý và cụ Lý Thị Khoai. Các cụ được ông cha để lại một thửa đất tại xóm Chùa, thôn Phúc Am, xã Ninh Thành nay là phố Tân Trung, phường Tân Thành, thành phố Ninh Bình tỉnh Ninh Bình. Cụ Hội và cụ Tý có một người con nuôi là bà Đinh Thị Gái và 2 người con đẻ là bà Nguyễn Thị Hiền, bà Nguyễn Thị Tuyết. Cụ Hội và cụ Khoai có 5 người con chung là ông Nguyễn Văn Thám, ông Nguyễn Văn Khôi, bà Nguyễn Thị Lành, bà Nguyễn Thị Nõn (Ngát) và bà Nguyễn Thị Phượng. Năm 1956, cụ Hội cùng 2 bà làm một ngôi nhà gỗ 5 gian. Năm 1986 cụ Hội chết không để lại di chúc, nhà đất cho cụ Tý, cụ Khoai và vợ chồng ông Thám quản lý, sử dụng. Năm 2005 cụ Tý làm đơn khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung giữa cụ, cụ Khoai và cụ Hội. Tại bản án số 06/2005/DS-ST ngày 18/7/2005 của Tòa án nhân dân thị xã Ninh Bình (nay là thành phố Ninh Bình) và bản án số 32/2005/DS-PT ngày 22/9/2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình đã xác định tài sản chung của 3 cụ là 1 ngôi nhà 5 gian trên diện tích đất 780,5m2; cụ Tý được chia cho vật liệu 01 gian nhà và 201,3m2 đất. Phần đất còn lại của cụ Khoai và cụ Hội tạm giao cho cụ Khoai và vợ chồng ông Thám quản lý, sử dụng. Tháng 3/2011 cụ Khoai chết không để lại di chúc, nhà đất vẫn do vợ chồng ông Thám quản lý, sử dụng. Ông Khôi khởi kiện đề nghị chia di sản thừa kế của cụ Khoai là ½ tài sản chung giữa cụ Khoai và cụ Hội gồm 4 gian nhà cấp 4 trên diện tích đất 506m2 trong đó 260m2 là đất ao và 246m2 là đất thổ cư tại thửa 16 tờ bản đồ số 18 năm 2003. Ngày 04/12/2012 ông Khôi thay đổi yêu cầu khởi kiện, chỉ đề nghị Tòa án chia phần di sản thừa kế của cụ Khoai là ½ diện tích đất 506,2m2 hiện do vợ chồng ông Thám đang quản lý, sử dụng. Tại đơn đề nghị, biên bản hòa giải vợ chồng ông Thám cũng đồng ý việc chia tài sản thừa kế của cụ Khoai là ½ diện tích đất. Tuy nhiên, năm 2010 ông Thám đã bỏ tiền ra san lấp ao hết 80.000.000đ (tám mươi triệu đồng), ông đề nghị phần di sản thừa kế của cụ Khoai chia làm 5 phần cho các con cụ Khoai và những người nhận thừa kế phải thanh toán tiền công san lấp ao cho ông. Tại đơn trình bày của những người có liên quan, cụ Tý, bà Gái, bà Lành, bà Hiền, bà Tuyết đồng ý xác định di sản thừa kế của cụ Khoai đề nghị chia theo pháp luật.
II. Những điểm chưa phù hợp
Thứ nhất, đối với kháng cáo của ông Khôi đề nghị Toà án thẩm định lại di sản của mẹ ông để đại diện tích đất ao là 260 m2 không phải là 226 m2 như tòa án cấp sơ thẩm đã xác định, Hội đồng xét xử thấy tại biên bản xác minh ngày 23/12/2012 Ủy ban nhân dân phường Tân Thành cung cấp thửa đất cụ Hội, cụ Tý, cụ Khoai thể hiện:
Thửa số 298 tờ bản đồ năm 1981 mang tên cụ Hội có diện tích 740 m2 (trong đó đất thổ canh 130 m2, đất ao 260 m2, đất thổ cư 350 m2)
Thửa số 20 tờ bản đồ số 11 năm 1996 không ghi tên người kê khai, diện tích 830,5 m2 (trong đó đất thổ cư 619,5 m2, đất ao 211 m2)
Thửa số 16 bản đồ số 18 năm 2013 mang tên bà Tý diện tích 830 m2 (trong đó đất thổ cư 603 m2, đất ao 226,3 m2)
Tại bản án dân sự số 06/2005/ DSST ngày 16/1/2005 của Toà án nhân dân thị xã Ninh Bình (nay là thành phố Ninh Bình) và bản án phúc thẩm số 32/2005/DSPT ngày 22/9/2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình thì tổng diện tích đất của cụ Hội, cụ Khoai và cụ Tý được Ủy ban nhân dân phường Tân Thành chấp nhận là 780 m2 ( trong đó đất thổ cư 520,5 m2, đất ao là 260 m2) đã chia cho cụ Tý quyền sử dụng 201,3 m2 và trích 73 m2 làm lối đi chung. Số diện tích đất còn lại giao cho cụ Khoai và ông Thám quản lý.
Tại biên bản thẩm định ngày 26/12/2013 Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình và chính Ủy ban nhân dân phường Tân thành cùng đương sự trong vụ án đã tiến hành thẩm định lại diện tích đất tranh chấp - diện tích đất ao là di sản thừa kế của cụ Khoai và cụ Hội, đang do ông Thám quản lý, thì diện tích đất ao là 267,6 m2. Diện tích đất ao có tăng hơn so với bản đồ năm 2003 là 41,3 m2. Theo quan điểm của Ủy ban Nhân dân phường Tân Thành cung cấp, diện tích đất ao tại thửa 16 tờ bản đồ số 18 năm 2003 là 226,3 m2; diện tích ghi trên bản đồ là diện tích mặt nước ao, còn diện tích bờ ao nằm trong diện tích đất thổ cư; diện tích đất ao của gia đình cụ Hội đang do ông Thám quản lý đã sử dụng ổn định, không tranh chấp, mốc giới với các hộ liền kề đã có tường bao và cột mốc nên đề nghị Tòa án căn cứ vào diện tích đất ao thực tế là 267,6 m2. Do vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy có căn cứ chấp nhận kháng cáo của ông Khôi, xác định diện tích đất ao của cụ Khôi và cụ Khoai là 267,6 m2, nên tài sản chung của cụ Nguyễn Văn Hội và cụ Lý Thị Khoai để lại là 504,7 m2 đất ( trong đó đất thổ cư là 237,14 m2, đất ao là 267,6 m2).
Thứ hai, quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm ông Nguyễn Văn Thám đề nghị năm 2010 ông đã san lấp ao hết 80.000.000đ. Tại biên bản định giá ngày 16/1/2013, Hội đồng định giá tài sản thành phố Ninh Bình đã xác định giá đất là 2.500.000đ/ m2. công san lấp ao là 60.623.000đ, Tòa án cấp sơ thẩm xác định 1/2 công san lấp ao ( phần di sản của cụ Khoai) cho ông Thám là 30.312.000đ là có căn cứ nhưng khi quyết định lại chia giá trị công san lấp ao cho 4 kỷ phần ( trừ ông Thám) là không đúng theo quy định của pháp luật. Do vậy, có căn cứ chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân thành phố Ninh Bình, giá trị công san lấp ao của ông Thám chia cho 5 kỷ phần thừa kế của cụ Khoai
Tòa sơ thẩm xác định chia tiền đoạn san lấp ao của ông Thám (bị đơn) là 60.623.499:2 = 30.311.747:4 = 7.577.936đ, chia đều cho 4 kỷ phần (ông Khôi, bà Lành, bà Ngát, bà Phượng) là không đúng theo quy định của pháp luật, do ông Thám còn lấp ao trên diện tích đất của cụ Hội nữa nên khi Tòa xét chia di sản của riêng cụ Khoai thì ông Thám vẫn phải thực hiện 1/5 nghĩa vụ tiền san lấp ao trên di sản của cụ Khoai vì ông Thám cũng là người nhận phần di sản thừa kế của cụ Khoai.
Thứ ba, vào ngày 04/12/2012, ông Khôi có thay đổi yêu cầu khởi kiện rút phần yêu cầu chia di sản thừa kế là 4 gian nhà, ông chỉ đề nghị Tòa án chia phần di sản thừa kế của cụ Khoai là 1/2 diện tích đất 506,2 m2 hiện do vợ chồng ông Thám đang quản lý, sử dụng. Xét thấy sự thay đổi này là hoàn toàn tự nguyện và đúng với quy định của pháp luật, nhưng Tòa sơ thẩm lại không xem xét để đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Khôi về chia thừa kế 4 gian nhà của cụ Lý Thị Khoai là không đúng theo quy định của pháp luật.
III. Quan điểm về việc giải quyết vụ việc phù hợp với quy định của pháp luật
Căn cứ khoản 2 điều 660 BLDS 2015, ta thấy những người được hưởng thừa kế theo pháp luật có thể lựa chọn phân chia tài sản theo các tiêu chí sau đây:
- Chia tài sản là di sản bằng hiện vật.
- Bán tài sản là di sản rồi chia bằng tiền
- Định giá tài sản là di sản và thỏa thuận người thừa kế sẽ nhận hiện vật
Căn cứ điều này cho thấy, việc tòa chia đất cho ông Khôi chung quyền sử dụng với bà Nõn và số tiền chênh lệch do ông Thám thanh toán là chưa phù hợp với ý chí của ông Khôi- người được hưởng thừa kế theo pháp luật.
Tại phán quyết của tòa đã đưa ra quyết định ông Khôi, bà Lành, bà Nõn, bà Phượng phải thanh toán cho ông Thám tiền công san lấp ao theo giá mà Hội đồng định giá tài sản Thành phố Ninh Bình đã định giá ngày 16/1/2013 là: 60.623.499đ : 2 = 30.311.747đ : 4 = 7.577.936đ. Việc xét xử như vậy là chưa đúng theo quy định của pháp luật, do vậy cần chia tiền công san lấp ao của ông Thám cho 5 kỷ phần thừa kế của cụ Khoai chứ không phải cho 4 kỷ phần như trước đó.
Về thời hiệu thừa kế, tại thời điểm ông Khôi khởi kiện đã quá thời hạn chia thừa kế di sản của cụ Hội. Tuy nhiên, cần xem xét lại vấn đề thời hiệu (cụ thể là căn cứ vào nội dung và tình tiết mâu thuẫn để xử lí, giải quyết tố tụng chứ không phải dựa vào thời gian để đảm bảo được tính khách quan nhất). Tòa hoàn toàn có quyền chấp nhận yêu cầu chia di sản thừa kế của ông Khôi về phần di sản của cụ Hội.
Tại điểm c khoản 1 điều 618 BLDS 2015 có nêu đến quyền của người quản lý di sản được thanh toán chi phí bảo quản di sản. Việc ông Thám là người quản lý di sản thì hoàn toàn có quyền yêu cầu phần chi phí này (cụ thể ông Thám đã quản lý di sản từ năm 1986, sau khi cụ Hội mất đến tháng 3/2011, cụ Khoai chết không để lại di chúc nhà đất vẫn do vợ chồng ông Thám quản lý sử dụng). Phí bảo quản di sản sẽ chia đều cho 5 người thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Từ những nguyên nhân đó, nhóm chúng em xin đưa ra quan điểm giải quyết vụ tranh chấp như sau:
- Giao cho Nguyễn Văn Thám được sử dụng 118,57m2 đất thổ cư có trị giá 296.425.000đ và có trách nhiệm thanh toán tài sản cho bà Lành 63.722.000đ, bà Phượng 63.722.000đ, bà Nõn 31.748.000đ
- Giao cho ông Khôi quản lý sử dụng diện tích 55,6m2 đất ao, trị giá 139.000.000đ và có trách nhiệm thanh toán chênh lệch tài sản cho bà Nguyễn Thị Nõn 32.078.000đ
- Giao cho bà Lành, bà Phượng, bà Nõn quản lý sử dụng diện tích 51,84m2 đất ao trị giá 129.600.000đ.
Bà Lành được nhận tiền chênh lệch tài sản do ông Thám thanh toán là 63.722.000đ.
Bà Phượng được nhận tiền chênh lệch tài sản do ông Thám thanh toán là 63.722.000đ.
Bà Nguyễn Thị Nõn được nhận tiền chênh lệch tài sản do ông Thám thanh toán là 31.748.000đ và được nhận tiền chênh lệch tài sản do ông Nguyễn Văn Khôi thanh toán là 32.078.000đ.
IV. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành
1. Về vấn đề thời hiệu chia thừa kế:
Trong ví dụ trên, ông Khôi không yêu cầu về việc chia di sản của cụ Hội mà chỉ đòi chia phần di sản thừa kế của cụ Khoai là ½ tài sản chung giữa cụ Khoai và cụ Hội. Do đó, bản án số 09/2013/DS-ST ngày 18 tháng 7 năm 2013 của TAND thành phố Ninh Bình cũng không xem xét tới, mà giao cho ông Thám tạm thời sử dụng quản lý.
Quy định của BLDS 2015 về thời hiệu đã có nhiều điểm mới so với BLDS 2005 theo hướng tiến bộ hơn.
Khoản 2 điều 149 BLDS 2015 quy định:
“Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc.
Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ.”
Điểm d, khoản 1 điều 688 BLDS 2015 về điều khoản chuyển tiếp cũng quy định:
Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày bộ luật này có hiệu lực thì việc áp dụng pháp luật được quy định như sau:
d, Thời hiệu được áp dụng theo quy định của bộ luật này
Như vậy, quy định của pháp luật hiện hành đã tạo điều kiện cho việc xác lập quyền sở hữu của những người thừa kế đối với tài sản, tránh tình trạng tranh chấp, không giải quyết được, tài sản vô chủ thuộc về nhà nước; đảm bảo quyền lợi của những người thừa kế. Khi tất cả người thừa kế đều không yêu cầu áp dụng thời hiệu thì tòa án vẫn tiến hành chia di sản theo yêu cầu của đương sự, dù thời hiệu đã hết.
Trên thực tế, quy định về thời hiệu có thể được áp dụng để bảo vệ quyền lợi của đương sự. Tòa án chỉ áp dụng thời hiệu khi đương sự có yêu cầu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định, nội dung này cho thấy đây là quyền của đương sự được yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu để giải quyết. Tuy nhiên, pháp luật không quy định Tòa án phải giải thích cho đương sự được biết để thực hiện quyền này. Với trình độ hiểu biết pháp luật của đa số các đương sự hiện nay, việc hiểu và nắm được quyền yêu cầu áp dụng thời hiệu là một vấn đề khó khăn. Pháp luật quy định cho đương sự có quyền, nhưng thực tế đương sự không biết để thực hiện quyền này, điều này dẫn đến pháp luật chưa đi vào đời sống nhân dân, tính xã hội của pháp luật chưa được đảm bảo.
Kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định: Trong phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thẩm phán phải phổ biến cho các đương sự biết quyền được yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu để giải quyết vụ việc
2. Với những người có công giữ gìn, tôn tạo, làm gia tăng giá trị của di sản thừa kế
Pháp luật hiện nay vẫn chưa có quy định về phần hoa lợi, lợi tức hình thành sau khi mở thừa kế. Phần giá trị gia tăng của di sản thừa kế sau khi mở thừa kế có thuộc phần di sản để chia thừa kế hay không?
Thiết nghĩ, HĐTP TANDTC cần có nghị quyết hướng dẫn về vấn đề này.
Đối với người có công giữ gìn, tôn tạo, làm gia tăng giá trị của di sản thừa kế, cần có quy định ghi nhận, bảo vệ quyền của họ.
3. Đối với việc phân chia di sản chung của vợ chồng cho thừa kế đối với các quan hệ hôn nhân gia đình được xác lập trước khi Luật HNGĐ 1959 có hiệu lực
Luật Hôn nhân và Gia đình lần đầu được ban hành vào năm 1959 bởi Quốc hội của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Theo đó, tại Điều 3 quy định: “Cấm lấy vợ lẽ”. Tuy nhiên, trong trường hợp bản án nói trên, cụ Hội đã có quan hệ hôn nhân với hai cụ Khoai và Tý từ trước thời kỳ Luật Hôn nhân và Gia đình 1959 có hiệu lực. Do đó, việc giải quyết tranh chấp trong phân chia di sản thừa kế chung của vợ chồng kết hôn trước thời điểm có hiệu lực của Luật Hôn nhân Gia đình 1959 cũng là một vấn đề cần được TANDTC hướng dẫn thi hành để đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động xét xử toàn quốc.
4. Về việc đưa các căn cứ pháp lý khi đưa ra quyết định cuối cùng của Tòa án
Trong vụ việc trên, TAND TP.Ninh Bình khi đưa ra quyết định cuối cùng đã không đưa căn cứ pháp lý của việc thu án phí, lệ phí tòa án; nhưng vẫn tiến hành thu án phí dân sự sơ thẩm của các đương sự. Đây là một sai sót nhỏ nhưng cũng cần phải được Tòa án các cấp lưu ý, nhằm khẳng định vững chắc căn cứ pháp lý cho phán quyết của mình.
KẾT LUẬN
Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và được cụ thể hóa trong BLDS. Việc xác định di sản, phân chia di sản thừa kế là một trong những yếu tố pháp lý quan trọng để giải quyết quan hệ về thừa kế. Việc phân chia di sản thừa kế góp phần làm ổn định các quan hệ xã hội, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những người thừa kế cũng như của những người liên quan và đảm bảo sự minh bạch của pháp luật. Tuy nhiên, trong thực tế còn khó khăn trong việc xác định và phân chia di sản thừa kế mà nguyên nhân chính là: một số quy định của pháp luật chưa rõ ràng, thiếu tính cụ thể, việc hướng dẫn giải thích pháp luật chưa đầy đủ, kịp thời hoặc do trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế, do trình độ xét xử của tòa án chưa đồng đều dẫn đến những thiếu sót.
Trong giới hạn bài viết này, qua việc phân tích bản án,tình huống thực tế về tranh chấp thừa kế liên quan đến xác định di sản thừa kế, bài viết đã rút ra những bất cập của pháp luật về vấn đề xác định di sản thừa kế để từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật và đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp di sản thừa kế.
Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU
Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

0 nhận xét