BÀI TẬP NHÓM LUẬT ĐẤT ĐAI HLU

tháng 10 12, 2023

Đề bài:

Bằng các quy định của pháp luật hiện hành, anh/chị hãy làm sáng tỏ nhận định sau:

“Quá trình phát triển của pháp luật đất đai qua các thời kỳ có xu hướng ngày càng quan tâm mở rộng các quyền cho người sử dụng đất” 

Anh/Chị có nhận định, đánh giá gì về việc tổ chức thực thi quyền của người sử dụng đất trên thực tế thời gian qua?



LỜI NÓI ĐẦU

Trải qua hơn 40 năm ghi nhận chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai ở Việt Nam, hệ thống pháp Luật Đất đai ngày càng hoàn thiện để nâng cao hiệu quả sử dụng đất cũng như hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai. Một trong những thành tựu rất lớn của pháp Luật Đất đai đó là ngày càng mở rộng quyền của người sử dụng đất. Từ chỗ người sử dụng đất chỉ có quyền sản xuất, canh tác trên đất đến khi quyền sử dụng đất trở thành một loại tài sản, người sử dụng đất có thể chuyển giao phù hợp với nhu cầu sử dụng của mình thông qua các giao dịch dân sự. Pháp Luật Đất đai cũng ngày càng bình đẳng hơn khi ghi nhận quyền của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở Việt Nam.

Mặc dù đã đạt được những kết quả to lớn, tuy nhiên trong thực tế một số quy định về quyền của người sử dụng đất còn chưa đầy đủ, chưa được làm rõ. Đi sâu làm rõ hơn vấn đề này nhóm chúng em xin phân tích quyền của người sử dụng đất qua các thời kì để từ đó thấy được thực trạng vấn đề tổ chức thực thi quyền của người sử dụng đất và cuối cùng là một số ý kiến của nhóm.

NỘI DUNG 

I. Về nhận định “Quá trình phát triển của pháp Luật Đất đai qua các thời kỳ có xu hướng ngày càng quan tâm mở rộng các quyền cho người sử dụng đất.

1. Luật cải cách ruộng đất 1953

Mãi cho tới khi Hiến pháp 1980 ra đời cùng với quy định tại Điều 19: “Đất đai, rừng núi, ... mà pháp luật quy định là của Nhà nước - đều thuộc sở hữu toàn dân.” thì tư tưởng “đất đai thuộc sở hữu toàn dân” mới tồn tại và được thừa nhận là hình thức sở hữu đất đai duy nhất được pháp luật thừa nhận. Vì vậy, có thể khẳng định khi Luật cải cách ruộng đất 1953 ra đời, khái niệm “đất đai” cũng như chế độ sở hữu toàn dân còn vô cùng xa lạ; điều đó cũng đồng nghĩa với việc các quyền đối với người sử dụng đất ở thời điểm ấy chỉ dừng lại ở mức độ sơ khai. Cụ thể hơn, Điều 31 Mục 4 Luật cải cách ruộng đất 1953 quy định: “ Người được chia ruộng đất có quyền sở hữu ruộng đất đó, và không phải trả cho địa chủ hay chính quyền bất cứ một khoản nào; chính quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu ấy cho người được chia. Mọi khế ước cũ đều huỷ bỏ; người được chia có quyền chia gia tài, cầm, bán, cho, v.v... ruộng đất được chia.”

Đây cũng là quy định duy nhất về quyền của người được chia ruộng đất được ghi nhận trong văn bản này. Ở đó, có một số điểm đáng được lưu ý sau đây:

Thứ nhất, xét về mặt hình thức, quyền của người được chia ruộng đất không được quy định cụ thể như quyền của người sử dụng đất trong các văn bản pháp Luật Đất đai về sau.

Thứ hai, quy định “Người được chia có quyền chia gia tài, cầm, bán, cho, v.v... ruộng đất được chia” bộc lộ nhiều thiếu sót trong pháp luật về đất đai thời điểm sau cách mạng nói riêng và pháp luật Việt Nam thời kỳ ấy nói chung. Có thể thấy, việc quy định một cách mơ hồ về các quyền của người được chia khiến cho các quan hệ pháp luật liên quan có khả năng không được thực hiện triệt để. 

Thứ ba, Luật Cải cách ruộng đất chưa ghi nhận những chứng từ pháp lý quan trọng để đảm bảo các quyền sở hữu toàn diện của người được chia.

2. Luật Đất đai năm 1987

Luật Đất đai năm 1987 ra đời quy định nguyên tắc sử dụng đất, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể sử dụng đất. Luật Đất đai 1987 khẳng định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý”. Có thể nói, Luật Đất đai năm 1987 là văn bản luật đầu tiên điều chỉnh quan hệ đất đai, bảo vê quyền sở hữu của Nhà nước, giao đất ổn định lâu dài. Qua đó cho thấy tính hoàn thiện hơn về mặt pháp lý, góp phần mở rộng các quyền cho người sử dụng đất

Sau một thời gian thực hiện, chế độ sở hữu đất đai gồm có 3 hình thức không còn phù hợp, nhất là việc quy định hình thức sở hữu tập thể đối với đất đai tạo ra nhiều bất hợp lý: chưa quy định rõ những cơ sở pháp lý cần thiết để điều chỉnh về quan hệ đất đai trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, trong quá trình tích tụ tập trung sản xuất trong nông nghiệp và phân công lại lao động trong nông thôn; chưa có những điều chỉnh thích đáng đối với những bất hợp lý trong những chính sách cũ, trong việc thay đổi quy hoạch, thay đổi kết cấu hộ nông dân trong nông thôn; chưa cho phép người sử dụng đất dịch chuyển quyền sử dụng đất.

Tuy nhiên, có thể khẳng định rõ ràng rằng, với sự ra đời của Luật Đất đai năm 1987 thì công tác quản lý đất đai đã bắt đầu đi vào nề nếp và đặc biệt chú ý tới việc xác định, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính các cấp địa phương.

3. Luật Đất đai năm 1993

Luật Đất đai 1993 tiếp tục đổi mới hơn nữa đất đai nông nghiệp, tập trung vào thiết lập hành lang pháp lý đối với giao đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định.

Thứ nhất, Luật Đất đai năm 1993 đã cụ thể hóa việc “Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài” quy định trong Hiến pháp năm 1992 bằng 2 hình thức: (1) Nhà nước giao đất, cho thuê đất cho các tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội, hộ gia đình và cá nhân; (2) Nhà nước cho tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất. Sau đó, lần sửa đổi năm 1998, 2001, Luật Đất đai đã mở rộng hình thức giao đất (có giao đất không thu tiền sử dụng đất, giao đất có thu tiền sử dụng đất), hình thức cho thuê đất (cho thuê trả tiền thuê đất hàng năm, cho thuê đất trả trước tiền thuê đất nhiều năm mà thời hạn thuê đất đã được trả tiền còn lại ít nhất là 5 năm, cho thuê trả tiền thuê đất 1 lần cho cả thời gian thuê). 

Thứ hai, để bảo đảm tâm lý sử dụng đất ổn định lâu dài cho người sử dụng đất, Nhà nước tuyên bố các đảm bảo về mặt pháp lý về quyền của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất; cụ thể, Luật Đất đai năm 1993 quy định nội dung chính là: (1) Nhà nước có thẩm quyền xét và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; (2) Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Như vậy có thể thấy, so với Luật Đất đai năm 1987 thì Luật Đất đai năm 1993 có thêm nhiều quy định mới, đặc biệt là các quy định liên quan đến việc mở rộng quyền cho người sử dụng đất. Nhưng đồng thời cũng dễ dàng nhận ra những xung đột về lợi ích trong các quy định tại luật này hãy còn nhiều, cần được xem xét.

4. Luật Đất đai sửa đổi năm 1998 và năm 2001

Ngày 02-12-1998 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đất đai được ban hành và Ngày 01-10-2001 tiếp tục sửa đổi một số điều của Luật Đất đai. Qua những lần sửa đổi, bổ sung này, vấn đề quyền của người sử dụng đất cũng đã có sự bổ sung, mở rộng hợp lý hơn tương đối rõ rệt. Với quy định giao đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ổn định lâu dài, pháp Luật Đất đai không ngừng mở rộng các quyền của người sử dụng đất: đó là quyền chuyển đổi, quyền chuyển nhượng, quyền cho thuê, quyền thừa kế và quyền thế chấp quyền sử dụng đất đến việc bổ sung hai quyền năng, đó là quyền cho thuê lại và quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Đó là những quyền của người sử dụng đất không thay đổi từ Luật Đất đai sửa đổi 1998 giống với Luật Đất đai sửa đổi năm 2001.Tuy nhiên so với luật sửa đổi cũ thì Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2001 ra đời bổ sung quyền bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất. Luật Đất đai sửa đổi năm 2001 quy định: “Tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có quyền thế chấp giá trị quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai, thì được thế chấp hoặc bảo lãnh bằng giá trị quyền sử dụng đất, tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất đó tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam.” Có thể thấy việc bổ sung thêm những quyền của người sử dụng đất của Luật Đất đai sửa đổi 1998 đến Luật Đất đai sửa đổi 2001 cho thấy sự mở rộng rõ rệt về quyền của người sử dụng đất, tạo cho người sử dụng đất những thuận lợi trong các giao dịch, từ đó có thể tận dụng triệt để những quyền lợi từ đất, phù hợp hơn với nền kinh tế đang phát triển theo hướng kinh tế thị trường của nước ta lúc bấy giờ.

5. Luật Đất đai năm 2003 

Quyền lựa chọn hình thức giao đất, thuê đất là một quyền mới được bổ sung trong Luật Đất đai 2003 so với Luật Đất đai 2001, thể hiện sự tôn trọng của nhà nước đối với quyền tự do lựa chọn hình thức sử dụng đất cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của người sử dụng. Đây là một minh chứng cho việc pháp Luật Đất đai luôn quan tâm và bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp cho người sử dụng đất, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sử dụng đất. Hơn nữa, quy định này ra đời còn phúc đáp các đòi hỏi của việc sử dụng đất trong điều kiện kinh tế thị trường. 

6. Luật Đất đai năm 2013

Luật Đất đai hiện hành là Luật Đất đai năm 2013 được hoàn thiện theo hướng quy định cụ thể các quyền, nghĩa vụ của từng đối tượng sử dụng đất (cơ quan, tổ chức nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hộ gia đình, cá nhân, …) phù hợp với các hình thức giao đất, thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất và quy định các điều kiện khi người sử dụng đất thực hiện các quyền của người sử dụng đất. Sau khi đưa ra các quyền lợi chung của người sử dụng đất, là sự kế thừa và phát triển của các đạo Luật Đất đai cũ, pháp Luật Đất đai năm 2013 đặc biệt quan tâm, cụ thể hóa đồng thời mở rộng các quyền của người sử dụng đất trong vấn đề chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất.

Luật Đất đai năm 2013 cũng không giới hạn mục đích thế chấp quyền sử dụng đất chỉ để vay vốn sản xuất kinh doanh như Luật Đất đai năm 2003: Theo điểm g Khoản 01 Điều 179 Luật Đất đai năm 2013: “Thế chấp quyền sử dụng đất tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam, tại tổ chức kinh tế khác hoặc cá nhân theo quy định của pháp luật”. Bên cạnh đó, Luật Đất đai năm 2013 bổ sung quy định về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất đối với trường hợp được miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; quyền của tổ chức kinh tế nhập góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất; quyền tự đầu tư trên đất của hộ gia đình, cá nhân. Pháp luật nước ta còn dành ra một điều luật 172 về Quyền lựa chọn hình thức trả tiền thuê đất v.v…. Ngoài ra, về điều kiện thực hiện các quyền của người sử dụng đất cũng được bổ sung để làm rõ ràng hơn việc thực thi quyền của người sử dụng đất trong thực tế. 

II. Đánh giá về việc tổ chức thực thi quyền của người sử dụng đất trên thực tế thời gian qua.

Như vậy, với các lập luận như trên, có thể nhận thấy rằng, các quyền cho người sử dụng đất ngày càng được quan tâm mở rộng theo từng giai đoạn phát triển của pháp luật đất đai. Hiện nay, theo Điều 5 của Luật Đất đai 2013, thì “Người sử dụng đất” được quy định bao gồm các đối tượng cụ thể như sau: 

“Người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này, bao gồm:

1. Tổ chức trong nước gồm cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức sự nghiệp công lập và tổ chức khác theo quy định của pháp luật về dân sự (sau đây gọi chung là tổ chức);

2. Hộ gia đình, cá nhân trong nước (sau đây gọi chung là hộ gia đình, cá nhân);

3. Cộng đồng dân cư gồm cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên cùng địa bàn thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố và điểm dân cư tương tự có cùng phong tục, tập quán hoặc có chung dòng họ;

4. Cơ sở tôn giáo gồm chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, niệm phật đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và cơ sở khác của tôn giáo;

5. Tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao gồm cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện khác của nước ngoài có chức năng ngoại giao được Chính phủ Việt Nam thừa nhận; cơ quan đại diện của tổ chức thuộc Liên hợp quốc, cơ quan hoặc tổ chức liên chính phủ, cơ quan đại diện của tổ chức liên chính phủ;

6. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài theo quy định của pháp luật về quốc tịch;

7. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp Việt Nam mà nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại theo quy định của pháp luật về đầu tư”.

Trên cơ sở quy định rõ những đối tượng nào được quyền sử dụng đất ở Việt Nam, Luật Đất đai 2013 đã ghi nhận các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất tại Chương 11 (từ Điều 166 đến Điều 194). Trên thực tế, từ khi có hiệu lực đến nay, việc tổ chức thực thi quyền của người sử dụng đất đã có nhiều kết quả tích cực, và tất nhiên, cũng có nhiều điểm bất cập, hạn chế trong quy định của pháp luật cũng như trong tổ chức thực hiện. Dưới đây là một số đánh giá cơ bản về việc tổ chức thực thi quyền của người sử dụng đất trên thực tế thời gian qua: 

Một là, việc đảm bảo thực hiện các quyền chung của người sử dụng đất được quy định tại Điều 166 của Luật Đất đai 2013 ngày càng phát huy hiệu quả. Điều này được thể hiện trong các quy định của pháp luật cũng như trong tổ chức thực hiện trên thực tiễn. Cụ thể là, trong việc đảm bảo các quyền quan trọng của người sử dụng đất như: cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (từ đây gọi tắt là GCN); hay việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; việc giải quyết khiếu kiện, tranh chấp về đất đai và bảo hộ người sử dụng đất hợp pháp khi quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm. Những quy định của pháp luật trong những lĩnh vực này đã rõ ràng hơn, đầy đủ và chặt chẽ hơn, từ đó, giúp pháp luật được thực hiện một cách hoàn chỉnh và thống nhất, giảm thiểu tối đa tình trạng các cơ quan nhà nước lợi dụng kẽ hở của pháp luật để tùy tiện thu hồi đất của người dân, hay sách nhiễu, cản trở việc cấp GCN cho người sử dụng đất. 

Tuy nhiên, thực tế tổ chức thực hiện Luật Đất đai 2013, vẫn xuất hiện nhiều điểm bất cập, mà trong đó nguyên nhân chủ yếu là trong việc tổ chức thực hiện các quy định pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền. Cụ thể là: tình trạng sai phạm trong thu hồi đất vẫn rất phổ biến ở nhiều vùng nông thôn với một số dạng sai phạm phổ biến như: thu hồi sai thẩm quyền, không thông báo cho người có đất bị thu hồi, ... hoặc nếu không có sai phạm trong thu hồi đất, thì cũng có tình trạng các cơ quan nhà nước cùng chủ đầu tư dự án đưa ra phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư bất hợp lý, hoặc còn mang tính hình thức. Việc cấp GCN còn có tình trạng gây khó khăn cho người sử dụng đất. Ngoài ra, tình trạng khiếu kiện, tranh chấp đất đai vẫn chiếm một tỉ trọng lớn trong số các vụ khiếu kiện, tranh chấp do Tòa án và UBND các cấp giải quyết. Ở một số nơi, nhất là những vùng ven các đô thị lớn có đông dân cư sinh sống, tình trạng lấn, chiếm đất hoặc xây dựng không phép trên đất thuộc quyền sử dụng của người khác vẫn phổ biến, nhưng cơ quan nhà nước lại chưa có biện pháp hiệu quả để xử lý tình trạng này. Những thực trạng nói trên đã ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện quyền của người sử dụng đất, làm cho họ khó có thể bảo đảm tốt nhất các quyền của mình, mặc dù, pháp luật quy định cho họ có những quyền đó. 

Hai là, việc hoàn thiện các quy định về quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất cũng như nhận quyền sử dụng đất; cùng với việc hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật về nhà ở, kinh doanh bất động sản và việc tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này một cách chặt chẽ và hiệu quả trong khoảng thời gian gần đây đã tạo điều kiện lớn cho sự hình thành và phát triển mạnh mẽ của thị trường bất động sản trong nước, đáp ứng được yêu cầu của người dân và doanh nghiệp khi có nhu cầu về đất nông nghiệp, đất ở, đất sản xuất kinh doanh. Các giao dịch chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, giao dịch thế chấp bằng quyền sử dụng đất cũng ngày càng tăng lên. Ngày càng nhiều hình thức bất động sản mới ra đời, đáp ứng tối đa nhu cầu ngày càng đa dạng của người sử dụng đất. 

Mặc dù đã được quy định chặt chẽ hơn so với các văn bản pháp Luật Đất đai trước đây, nhưng Luật Đất đai 2013 vẫn có một số bất cập trong việc ghi nhận những quyền nói trên của người sử dụng đất. Điển hình như: Khoản 3 Điều 191 Luật Đất đai năm 2013 quy định “Hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa” mâu thuẫn với quy định của Hiến pháp 2013 - văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật quốc gia. Cụ thể là, Khoản 2 Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định: “…quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ”. Nghĩa là Hiến pháp văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, không quy định cấm hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp làm nông nghiệp thì không được nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa. 

Ba là, các quy định của pháp luật về quyền của người sử dụng đất được tách bạch, rõ ràng thành từng nhóm đối tượng cụ thể; trong đó mỗi nhóm đối tượng người sử dụng đất lại có những quyền và lợi ích hợp pháp riêng được luật định phù hợp với mục đích sử dụng đất của họ. Những quy định này đã tạo điều kiện để người sử dụng đất có thể khai thác tối đa nguồn tài nguyên đất đai vào các mục đích riêng, phù hợp với quy định của pháp luật lại vừa phù hợp với mong muốn của họ. Nhờ đó, thể hiện một bước tiến của Luật Đất đai Việt Nam, theo hướng chuyển dần từ việc quy định theo hướng ưu tiên cho việc quản lý hành chính về đất đai của Nhà nước sang quy định theo hướng lấy người sử dụng đất làm trung tâm, nhưng vẫn đảm bảo chế độ sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu. 

Tuy nhiên, việc tổ chức thực hiện vẫn còn nhiều đối tượng gặp khó khăn trong việc sử dụng đất đai ở Việt Nam, nếu chiếu theo quy định pháp luật hiện hành. Điển hình như: đối với nhóm người Việt định cư ở nước ngoài, các quy định về quyền và nghĩa vụ của họ khi thuê đất trả tiền thuê đất hằng năm còn hạn chế, việc xác định thời hạn sử dụng đất cho người nước ngoài, doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam còn chưa thực sự phù hợp với thực tiễn của từng dự án đầu tư do họ thực hiện, …. Những quy định này đã hạn chế một phần những quyền và lợi ích chính đáng của những người sử dụng đất, và đối với những nhà đầu tư nước ngoài, những hạn chế trong các quy định về đất đai có thể là một hạn chế lớn trong chính sách thu hút đầu tư, phát triển kinh tế của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. 

III. Ý kiến đóng góp hoàn thiện vấn đề tổ chức thực thi quyền của người sử dụng đất trên thực tế

Thứ nhất, cần tiến tới việc quy định cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài được hưởng những quyền sử dụng đất giống như cá nhân, tổ chức trong nước, bởi lẽ họ là một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng người Việt Nam. Điều này cũng thúc đẩy tiềm lực kinh tế và tiềm lực trí tuệ của cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tạo thêm lòng tin và động lực cho việc đầu tư của họ về Việt Nam. 

Thứ hai, thời hạn thuê đất pháp luật quy định cho phép là từ 50-70 năm; trong khi thực tế có nhiều loại dự án đầu tư cần nhiều thời gian hơn để tiếp tục sản xuất kinh doanh sinh lời. Do đó, cần thiết phải quy định thêm về thời hạn sử dụng đất đối với các dự án này để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư khi thực hiện dự án đầu tư.

Thứ ba, cần đơn giản hóa, minh bạch hóa thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để người sử dụng đất có thể tiếp cận dễ dàng hơn.

Thứ tư, các cấp có thẩm quyền cần nỗ lực thanh tra, kiểm tra, phát hiện, thu hồi các diện tích do nhà nước giao, cho thuê mà chủ dự án không sử dụng, sử dụng không đúng mục đích, sử dụng không có hiệu quả hoặc chưa khai thác hết tiềm năng của đất. Khi kiểm tra, phát hiện phải kiên quyết xử lý, thu hồi, tránh tình trạng nhân nhượng cho các chủ đầu tư, lo ngại ảnh hưởng tới thu hút vốn đầu tư. Bên cạnh đó việc thu hồi phải trong quy hoạch, kế hoạch của địa phương, không được thu hồi tùy tiện, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của người sử dụng đất.

Thứ năm, cần sửa đổi, thay thế các quy định về việc nhà nước giao đất, cho thuê đất cho tổ chức kinh tế theo cơ chế hành chính xin – cho bằng các quy định nhà nước đấu giá, đấu thầu quyền sử dụng đất. Từ đó góp phần thúc đẩy thị trường sơ cấp về quyền sử dụng đất và tạo cơ hội hình đẳng cho các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế tiếp cận sử dụng đất đai. Bên cạnh đó, nhà nước cần tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy định về trình tự, thủ tục đấu giá, đấu thầu quyền sử dụng đất theo hướng đơn giản, minh bạch, công khai, ngăn ngừa và xử lý nghiêm những hành vi cấu kết, thông đồng, móc ngoặc làm sai lệch, méo mó bản chất của hoạt động đấu giá, đấu thầu quyền sử dụng đất, góp phần nâng cao tính cạnh tranh lành mạnh, công bằng của thị trường bất động sản.

Thứ sáu, cần bổ sung các quy định về phát triển thị trường thứ cấp về quyền sử dụng đất theo hướng để các tổ chức kinh tế có quyền sử dụng đất hợp pháp được tự do chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cho phép các tổ chức kinh tế không phân biệt thành phần kinh tế được tự do nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đáp ứng nhu cầu hoạt động sản xuất, kinh doanh.

KẾT LUẬN

Việc mở rộng quyền cho người sử dụng đất đã mang lại những kết quả to lớn giúp cho việc sử dụng đất đai ngày càng hiệu quả. Làm cho người sử dụng đất gắn bó hơn với đất đai, yên tâm đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh để tăng hiệu quả sử dụng đất, mặt khác tạo môi trường thu hút vốn đầu tư nước ngoài phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế. Vấn đề đặt ra hiện nay là ngày càng càng mở rộng hơn nữa quyền năng hợp lý của người sử dụng đất, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đất đai, đơn giản hóa thủ tục hành chính để người dân tiếp cận được với các quyền của mình một cách nhanh nhất, đơn giản nhất mà Nhà nước vẫn đảm bảo được các quyền đó thực hiện trong khuôn khổ của pháp luật.

Trong quá trình hoàn thiện bài tập, do vẫn còn nhiều hạn chế về kiến thức nên không tránh khỏi những khiếm khuyết, kính mong nhận được sự nhận xét và đóng góp ý kiến từ phía các thầy cô để bài làm của nhóm chúng em được hoàn thiện hơn.

Chúng em xin chân thành cảm ơn!

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Luật Đất đai, Trường Đại học luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, 2016.

2. Nguyễn Ngọc Trâm, TS. Nguyễn Thị Dung hướng dẫn, Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, 2016

3. Nguyễn Ngọc Minh, PGS.TS. Hoàng Thế Liên, PGS.TS. Nguyễn Quang Tuyến hướng dẫn, Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của tổ chức kinh tế trong sử dụng đất, Luận án tiến sĩ luật học, 2016

4. Trần Vang Phú, Trần Thụy Quốc Thái, Hoàn thiện quy định pháp luật về quyền sử dụng đất ở, nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 4 (404)/Kỳ 2, tháng 2/2020, trang 38 – 42

5. https://luatsudfc.vn/luat-dat-dai-nam-1987.html - Những điểm nổi bật của Luật Đất đainăm 1987.

6. http://luathongbang.com.vn/quyen-va-nghia-vu-cua-nguoi-su-dung-dat-tu-nam-1993-den-nay__trashed/

7. https://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/thoi-su-phap-luat/nha-dat/2678/sua-doi-luat-dat-dai-can-mot-tam-nhin-xa-hon-va-sach-hon

Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU

Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

You Might Also Like

0 nhận xét