BÀI TẬP NHÓM MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI 2 HLU
tháng 10 11, 2023ĐỀ BÀI
Ngày 15/11/2016, Công ty TNHH thương mại và xây dựng V ký hợp đồng mua 223 tấn thép loại phi 28 của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu thép K. Trong hợp đồng hai bên đã thỏa thuận: “Mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này được giải quyết tại Trung tâm trọng tài thương mại M theo thủ tục tố tụng trọng tài quy định tại Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài thương mại M”.
Sau khi giao tiền và nhận đủ 223 tấn thép tại kho của Công ty K, Công ty V phát hiện Công ty K đã giao thép phi 26 nên đã yêu cầu Công ty K thực hiện đúng hợp đồng và gia hạn cho Công ty K giao hàng vào ngày 20/11/2016. Tuy nhiên, Công ty K vẫn không thực hiện giao hàng như đã thỏa thuận trong hợp đồng.
Ngày 25/11/2016, Công ty V đã làm đơn kiện Công ty K và gửi đến Trung tâm trọng tài thương mại M có trụ sở tại quận CG, thành phố HN. Ngày 30/11/2016, Chủ tịch Trung tâm trọng tài M đã ra quyết định thành lập Hội đồng trọng tài gồm ba trọng tài viên để giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa giữa Công ty V và Công ty K.
Ngày 15/12/2016, Hội đồng trọng tài đã mở phiên họp và ra phán quyết buộc Công ty K phải bồi thường thiệt hại là 293 triệu đồng cho Công ty V. Công ty K đã làm đơn yêu cầu Tòa án quận CG tuyên hủy phán quyết trọng tài vì trong hợp đồng mua bán thép các bên không có thỏa thuận về việc bồi thường thiệt hại. Tòa án nhân dân quận CG đã thụ lý đơn và chỉ định Hội đồng xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài của Công ty K. Hội đồng xét đơn đã ra quyết định không hủy phán quyết trọng tài với lý do chế tài bồi thường thiệt hại là chế tài đương nhiên, không cần các bên thỏa thuận trong hợp đồng.
Căn cứ vào pháp luật hiện hành, hãy cho biết:
1. Xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trung tâm trọng tài thương mại M.
2. Việc thành lập Hội đồng trọng tài của Chủ tịch Trung tâm trọng tài thương mại M có hợp pháp không? Giải thích rõ.
3. Tòa án nhân dân quận CG có thẩm quyền thụ lý đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài của Công ty K không? Tại sao?
4. Lý do Hội đồng xét đơn xét đơn ra quyết định không hủy phán quyết trọng tài có hợp pháp không? Vì sao?
5. Phân tích các căn cứ hủy phán quyết trọng tài theo quy định của pháp luật hiện hành
I. Xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trung tâm trọng tài thương mại M.
1. Thẩm quyền của Trọng tài đối với vụ tranh chấp
Theo quy định tại Điều 2 Luật Trọng tài thương mại 2010 (“Luật TTTM”), Trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đối với:
(i) Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại
(ii) Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại
(iii) Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài.
(trừ trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều 2 Nghị quyết 01/2014/NQ/HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định Luật TTTM)
Trong tình huống trên, công ty TNHH thương mại và xây dựng V (“Nguyên đơn”) ký hợp đồng mua 223 tấn thép loại phi 28 của công ty CP xuất nhập khẩu thép K (“Bị đơn”). Đây là hợp đồng mua bán hàng hoá, hai bên trong vụ tranh chấp đã thực hiện hoạt động thương mại . Vì vậy, theo khoản 1 Điều 2 Luật TTTM, Trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp này.
2. Thẩm quyền của Trung tâm trọng tài M
Trong hợp đồng mua bán hai bên đã thỏa thuận: “Mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này được giải quyết tại Trung tâm trọng tài thương mại M theo thủ tục tố tụng trọng tài quy định tại Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài thương mại M”. Như vậy, nhóm 6 nhận thấy: (i) đã tồn tại một thỏa thuận trọng tài giữa các bên dưới hình thức điều khoản trọng tài, thoả thuận trọng tài thể hiện rõ ý chí của các bên tham gia trong việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và Trung tâm trọng tài M (“Trung tâm”) là tổ chức trọng tài được chọn; (ii) thoả thuận trọng tài đã đáp ứng các yêu cầu về hình thức của thoả thuận trọng tài quy định tại Điều 16 Luật TTTM; (iii) thoả thuận trọng tài nói trên không thuộc trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu quy định tại Điều 18 của Luật TTTM.
Từ những phân tích trên, nhóm 6 cho rằng: Trung tâm trọng tài M là tổ chức trọng tài đã được các bên thống nhất lựa chọn và có đủ thẩm quyền thụ lý vụ tranh chấp theo Đơn kiện của Nguyên đơn. Trọng tài viên của Trung tâm trọng tài thương mại M có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp theo Quy tắc tố tụng của Trung tâm.
3. Mối quan hệ giữa thẩm quyền của Trung tâm trọng tài và Trọng tài viên của trung tâm
Theo Điều 23 Luật TTTM, Trung tâm trọng tài có chức năng “tổ chức, điều phối hoạt động giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài quy chế và hỗ trợ Trọng tài viên về các mặt hành chính, văn phòng và các trợ giúp khác trong quá trình tố tụng trọng tài”. Có thể thấy, pháp luật hiện hành quy định chức năng của các Trung tâm trọng tài tập trung vào hoạt động quản lý về trình tự, thủ tục của các vụ tranh chấp mà không bao gồm việc giải quyết tranh chấp. Ngoài ra, theo Điều 28 Luật TTTM, thẩm quyền giải quyết tranh chấp cũng không được trao cho Trung tâm trọng tài. Trên thực tế, hầu hết các tổ chức Trọng tài đều có quy định tổ chức Trọng tài đó giải quyết tranh chấp thông qua một Hội đồng trọng tài. Ví dụ khoản 2 Điều 1 Quy tắc của Toà án Trọng tài Quốc tế (ICC), có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2021, quy định: “Tòa trọng tài không tự mình giải quyết tranh chấp. Nó quản lý việc giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài phù hợp với quy tắc trọng tài ICC.” ; hoặc khoản 1 Điều 38 Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt nam (VIAC), có hiệu lực từ ngày 01 tháng 3 năm 2017, quy định: “Trung tâm không tự mình giải quyết các vụ tranh chấp. Việc giải quyết các vụ tranh chấp được tiến hành bởi Hội đồng Trọng tài.”
Do đó, có thể nhận định rằng, Trung tâm Trọng tài và Hội đồng Trọng tài do Trung tâm thành lập là hai thực thể khác nhau và giữ vai trò khác nhau trong quá trình tố tụng trọng tài nhưng có mối quan hệ song hành và không thể tách rời.
II. Việc thành lập Hội đồng trọng tài của Chủ tịch Trung tâm trọng tài thương mại M có hợp pháp không? Giải thích rõ.
Theo thoả thuận trọng tài giữa các Bên, việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ Hợp đồng được giải quyết tại Trung tâm trọng tài M. Vì vậy, hình thức giải quyết vụ tranh chấp này, bao gồm việc thành lập Hội đồng trọng tài, được tiến hành theo quy định của Luật TTTM và quy tắc tố tụng của Trung tâm. Việc thành lập Hội đồng trọng tài tại Trung tâm trọng tài được quy định cụ thể tại Điều 40 Luật TTTM . Theo đó, quy trình thực hiện quá trình thành lập Hội đồng trọng tài có thể được thực hiện theo (i) sự thoả thuận của các Bên, (ii) quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài (nếu Trung tâm trọng tài có quy định khác so với quy trình tại Điều 40), hoặc (iii) quy định về thủ tục và thời hạn tại Điều 40 Luật TTTM (trong trường hợp các Bên không có thoả thuận khác hoặc quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài không quy định khác). Như vậy, để kết luận việc thành lập Hội đồng trọng tài của Chủ tịch Trung tâm trọng tài thương mại M có hợp pháp hay không, ta cần dựa vào từng trường hợp cụ thể:
1. Trường hợp 1. Việc thành lập Hội đồng trọng tài được tiến hành theo thoả thuận của các bên hoặc theo quy tắc tố tụng của Trung tâm
Trong trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc quy tắc tố tụng của Trung tâm có quy định rằng Chủ tịch Trung tâm có thẩm quyền chỉ định Trọng tài viên thay cho các bên, từ đó thành lập Hội đồng trọng tài để giải quyết vụ việc, việc thành lập Hội đồng trọng tài của Chủ tịch Trung tâm trọng tài thương mại M là hợp pháp.
2. Trường hợp 2. Việc thành lập Hội đồng trọng tài được tiến hành theo quy định tại Điều 40 Luật TTTM
Trường hợp các bên không có thỏa thuận khác hoặc quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài không quy định khác, việc thành lập Hội đồng trọng tài được tiến hành theo quy định tại Điều 40 Luật TTTM. Trong trường hợp này, Trung tâm có nghĩa vụ yêu cầu bị đơn chọn Trọng tài viên.
Nếu Chủ tịch Trung tâm ra quyết định thành lập Hội đồng trọng tài gồm ba trọng tài viên để giải quyết tranh chấp mà không gửi yêu cầu nêu trên đến bị đơn, việc ra quyết định của Chủ tịch Trung tâm bị coi là không hợp pháp, vi phạm quy định pháp luật về thẩm quyền và thủ tục tố tụng.
Nếu Chủ tịch Trung tâm đã gửi yêu cầu bị đơn chọn Trọng tài viên, các bước tiếp theo để thành lập Hội đồng trọng tài gồm 03 Trọng tài viên phải tuân thủ thời hạn quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 40 Luật TTTM. Theo đó, việc thành lập Hội đồng trọng tài được tiến thành như sau: Sau khi gửi yêu cầu chọn Trọng tài viên tới bị đơn, Chủ tịch Trung tâm có thẩm quyền chỉ định trọng tài viên giải quyết vụ tranh chấp cho bị đơn chỉ khi (i) đề nghị Chủ tịch Trung tâm trọng tài chỉ định Trọng tài viên, hoặc (ii) bị đơn không chọn Trọng tài viên hoặc không đề nghị Chủ tịch Trung tâm chỉ định Trọng tài viên trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu nêu trên. Trong vòng 15 ngày kể từ ngày được các bên chọn hoặc Chủ tịch Trung tâm chỉ định, các Trọng tài viên này tiến hành bầu một Trọng tài viên khác làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài. Hết thời hạn này mà việc bầu không thực hiện được, trong vòng 07 ngày, Chủ tịch Trung tâm chỉ định Chủ tịch Hội đồng trọng tài. Giả thiết rằng trong vòng 05 ngày kể từ ngày nhận đơn khởi kiện của Nguyên đơn, Trung tâm đã gửi yêu cầu chọn trọng tài viên tới bị đơn, sau đó Chủ tịch Trung tâm đã ra quyết định thành lập Hội đồng trọng tài gồm ba trọng tài viên giải quyết vụ tranh chấp:
* Nếu bị đơn chọn Trọng tài viên sau khi nhận được yêu cầu của Trung tâm
Khi đó, việc ra quyết định thành lập Hội đồng trọng tài gồm 03 trọng tài viên của Chủ tịch Trung tâm vào ngày 30/11/2016 sẽ chỉ hợp pháp nếu tất cả các bước sau được thực hiện trong thời hạn 05 ngày: (i) bị đơn chọn trọng tài viên hoặc đề nghị Trung tâm chọn trọng tài viên, và (ii) các Trọng tài viên của hai bên tiến hành bầu một Trọng tài viên khác làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài. Trên thực tế, điều này là bất khả thi bởi sau khi nhận đơn khởi kiện, các Trung tâm trọng tài cần tiến hành các bước thủ tục như xem xét hồ sơ tài liệu, yêu cầu nguyên đơn nộp phí,… trước khi gửi đơn khởi kiện và yêu cầu chọn trọng tài viên đến bị đơn. 05 ngày là thời gian quá ngắn để làm các công việc đó cùng với các điều kiện (i) và (ii) nêu trên. Vì vậy, trong trường hợp thành lập Hội đồng trọng tài được theo quy định tại Điều 40 Luật TTTM, việc Chủ tịch Trung tâm trọng tài thương mại M ra quyết định thành lập Hội đồng trọng tài gồm 03 trọng tài viên, theo quan điểm của nhóm, là không phù hợp với quy định pháp luật.
* Nếu bị đơn không chọn Trọng tài viên hoặc đề nghị Trung tâm chỉ định Trọng tài viên
Khi đó, ít nhất phải 30 ngày kể từ ngày bị đơn nhận được yêu cầu chọn trọng Trọng tài viên, Chủ tịch trung tâm mới có thể ra quyết định chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn và tiến hành các bước tố tụng tiếp theo. Trong tình huống đề bài, thời gian từ ngày công ty V kiện công ty K ra Trung tâm trọng tài thương mại M đến ngày Chủ tịch Trung tâm trọng tài thương mại M thành lập Hội đồng trọng tài là 05 ngày, ngắn hơn rất nhiều so với thời gian ước tính trên. Vì thế, việc Chủ tịch Trung tâm trọng tài thương mại M ra quyết định thành lập Hội đồng trọng tài gồm 03 trọng tài viên là không hợp pháp trong trường hợp này.
III. Tòa án nhân dân quận CG có thẩm quyền thụ lý đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài của Công ty K không? Tại sao?
Tòa án nhân dân quận CG không có thẩm quyền thụ lý đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài của công ty K. Bởi lẽ:
Điểm g khoản 2 Điều 7 Luật TTTM quy định: “Đối với yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi Hội đồng trọng tài đã tuyên phán quyết trọng tài”.
Mặt khác, khoản 3 Điều 7 Luật TTTM quy định: “Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này là Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”.
Như vậy, thẩm quyền thụ lý đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài của công ty K là tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Hội đồng trọng tài ra phán quyết.
Do đó, tòa án nhân dân quận CG không có thẩm quyền thụ lý đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài của công ty K.
IV. Lý do Hội đồng xét đơn xét đơn ra quyết định không hủy phán quyết trọng tài có hợp pháp không? Vì sao?
Theo quy định của pháp luật hiện hành, các căn cứ huỷ phán quyết trọng tài được quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật TTTM, cụ thể:
(1) Không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu;
(2) Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật TTTM;
(3) Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; trường hợp phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì nội dung đó bị hủy;
(4) Chứng cứ do các bên cung cấp và Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài.
(5) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 15 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP quy định: “Khi xét đơn yêu cầu, Hội đồng xét đơn không xét lại nội dung vụ tranh chấp mà cần kiểm tra phán quyết trọng tài có thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật TTTM hay không. Nếu xét thấy phán quyết trọng tài thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật TTTM và Hội đồng trọng tài không khắc phục hoặc không thể khắc phục được theo yêu cầu của Tòa án quy định tại khoản 7 Điều 71 Luật TTTM, thì Hội đồng xét đơn yêu cầu căn cứ vào điểm tương ứng tại khoản 2 Điều 68 Luật TTTM để ra quyết định huỷ phán quyết trọng tài.”
Theo tình huống đã cho, công ty K đã làm đơn yêu cầu Tòa án quận CG tuyên hủy phán quyết trọng tài, với lý do là trong hợp đồng mua bán thép các bên không có thỏa thuận về việc bồi thường thiệt hại. Đây không phải là một trong các căn cứ theo khoản 2 Điều 68 Luật TTTM để Tòa án có quyền hủy phán quyết trọng tài.
Tiếp đó, khi Hội đồng xét đơn được chỉ định để xem xét việc hủy phán quyết trọng tài, Hội đồng xét đơn đã ra quyết định không hủy phán quyết trọng tài với lý do chế tài bồi thường thiệt hại là chế tài đương nhiên, không cần các bên thỏa thuận trong hợp đồng. Việc đưa ra lý do này có nghĩa là Hội đồng xét đơn đã xét lại nội dung vụ tranh chấp khi xét đơn yêu cầu. Điều này là trái với quy định tại khoản 2 Điều 15 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP.
Như vậy, lý do mà Hội đồng xét đơn đưa ra để không hủy phán quyết trọng tài là không hợp pháp. Hội đồng xét đơn cần đưa ra quyết định không hủy phán quyết trọng tài với lý do: “Lý do đề nghị hủy phán quyết trọng tài của công ty K không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại 2010. Do đó, không có căn cứ để hủy phán quyết trọng tài.”
V. Phân tích các căn cứ hủy phán quyết trọng tài theo quy định của pháp luật hiện hành
Khác với bản án do Toà án nhân dân các cấp tuyên, phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm. Theo đó, các bên phải tự nguyện thi hành phán quyết mà không được kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa rằng các bên bắt buộc phải thi hành phán quyết trọng tài trong mọi trường hợp, kể cả khi phán quyết đó có sai sót. Điều 68 Luật TTTM đã quy định chi tiết về căn cứ huỷ phán quyết trọng tài. Theo đó, một phán quyết trọng tài chỉ có thể bị huỷ khi phán quyết đó đáp ứng cả 2 điều kiện dưới đây:
Điều kiện 1: Một bên yêu cầu Tòa án xem xét huỷ phán quyết trọng tài (Khoản 1 Điều 68 Luật TTTM)
Đây là điều kiện tiên quyết để một phán quyết trọng tài được Tòa án xem xét có hủy hay không. Quy định này được đặt ra nhằm đảm bảo rằng Tòa án sẽ không can thiệp vào hoạt động giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài, kể cả khi phán quyết đã được đưa ra, nếu như không có sự yêu cầu của một bên đương sự trong vụ tranh chấp. Nói cách khác, Tòa án sẽ không thể tự động can thiệp vào việc thi hành bình thường của một phán quyết trọng tài, nếu như không có yêu cầu của một bên.
Điều kiện 2: Phán quyết trọng tài thuộc vào một trong năm trường hợp được quy định tại Khoản 2 Điều 68 Luật TTTM
(1) Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu (điểm a khoản 2 Điều 68)
Theo điểm a khoản 2 Điều 14 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP: “Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu” là thỏa thuận trọng tài thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 6 và Điều 18 Luật TTTM và hướng dẫn tại các điều 2, 3 và 4 Nghị quyết này.”
Cụ thể, một phán quyết trọng tài sẽ bị Toà án tuyên huỷ theo căn cứ này nếu như các bên tranh chấp không có thoả thuận về việc giải quyết bằng Trọng tài đối với tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trước đó; hoặc nếu có thỏa thuận trọng tài, thì thoả thuận đó bị vô hiệu do thuộc vào một trong các trường hợp được quy định tại Điều 18 Luật TTTM. Theo đó, một thỏa thuận trọng tài có thể bị vô hiệu nếu (i) các bên thỏa thuận sử dụng trọng tài để giải quyết một tranh chấp không thuộc phạm vi tranh chấp thương mại được quy định tại Điều 2 của Luật TTTM; (ii) người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền hoặc không có năng lực hành vi dân sự; (iii) thoả thuận trọng tài vi phạm điều cấm của luật hoặc vi phạm quy định về hình thức; (iv) thoả thuận trọng tài được xác lập không dựa trên sự tự do ý chí của cả 2 bên.
Như vậy, có thể nhận thấy, những điều kiện để một thỏa thuận trọng tài vô hiệu khá tương đồng với những điều kiện để một giao dịch dân sự vô hiệu theo pháp luật dân sự.
(2) Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật TTTM (điểm b khoản 2 Điều 68)
Theo điểm b khoản 2 Điều 14 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP: “Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên hoặc trái với các quy định Luật TTTM” là trường hợp các bên có thỏa thuận về thành phần Hội đồng trọng tài, quy tắc tố tụng trọng tài nhưng Hội đồng trọng tài thực hiện không đúng thỏa thuận của các bên hoặc Hội đồng trọng tài thực hiện không đúng quy định Luật TTTM về nội dung này mà Tòa án xét thấy đó là những vi phạm nghiêm trọng và cần phải hủy nếu Hội đồng trọng tài không thể khắc phục được hoặc không khắc phục theo yêu cầu của Tòa án quy định tại khoản 7 Điều 71 Luật TTTM. Như vậy, đối với trường hợp này, phán quyết trọng tài sẽ bị huỷ khi quá trình tố tụng trọng tài không tuân thủ theo ý chí, thỏa thuận của các bên phù hợp với các quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp, phán quyết trọng tài sẽ tự động bị tuyên hủy với lý do này. Hội đồng trọng tài, theo khoản 7 Điều 71 Luật TTTM, vẫn có thể khắc phục những sai sót tố tụng trọng tài theo quan điểm của chính Hội đồng nhằm “loại bỏ căn cứ hủy bỏ phán quyết trọng tài”. Tuy vậy, việc này chỉ được tiến hành khi Tòa án nhận được yêu cầu của một bên và Toà xét thấy phù hợp; đồng thời, Hội đồng trọng tài cũng phải thông báo cho Toà án biết về việc khắc phục sai sót tố tụng này. Như vậy, phán quyết trọng tài sẽ bị huỷ nếu như thuộc vào trường hợp này; và không có yêu cầu của bên nào muốn Hội đồng trọng tài khắc phục sai sót; hoặc Hội đồng trọng tài đã không thể khắc phục được những sai sót đó.
(3) Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài (điểm c khoản 2 Điều 68)
Theo điểm c khoản 2 Điều 14 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP, “vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài” được hiểu là: (i) Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài (quy định tại Điều 2 Luật TTTM); hoặc (ii) Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp mà không được các bên thỏa thuận yêu cầu Trọng tài giải quyết; hoặc (iii) Hội đồng trọng tài giải quyết vượt quá phạm vi của thỏa thuận đưa ra Trọng tài giải quyết.
Như vậy, có thể hiểu rằng, một phán quyết trọng tài sẽ bị huỷ nếu như Hội đồng trọng tài vượt quá thẩm quyền giải quyết tranh chấp được pháp luật giới hạn cho họ; hoặc được các bên tranh chấp trao cho họ. Điều này phù hợp với bản chất của tố tụng trọng tài, đó là mọi thẩm quyền mà Hội đồng trọng tài được trao cho đều phải xuất phát từ ý chí tự do và sự thỏa thuận của các bên, cũng như những quy định mang tính định khung của pháp luật trọng tài.
Tuy nhiên, cũng như một hợp đồng sẽ không bị tuyên vô hiệu toàn bộ nếu chỉ có một bộ phận trong đó bị vô hiệu, chỉ những nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì mới bị huỷ. Về vấn đề này, Toà án nhân dân tối cao đã hướng dẫn: “Về nguyên tắc, Tòa án chỉ hủy phần quyết định có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài mà không hủy phán quyết trọng tài. Trường hợp có thể tách được phần quyết định của Hội đồng trọng tài về vấn đề đã được yêu cầu và phần quyết định về vấn đề không được yêu cầu giải quyết tại Trọng tài, thì phần quyết định về vấn đề được yêu cầu giải quyết không bị huỷ.”
(4) Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài (điểm d khoản 2 Điều 68)
Bản chất của quy định này là, Tòa án sẽ xem xét tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài và sẽ tuyên hủy một phán quyết nếu không đáp ứng được điều kiện đó. Pháp luật hiện nay cho rằng có 2 trường hợp có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới tính khách quan và công bằng này, đó là: (i) chứng cứ giả mạo; và (ii) bản thân trọng tài viên không khách quan, công bằng khi đưa ra phán quyết do đã nhận một lợi ích vật chất từ một bên tranh chấp. Một phán quyết trọng tài, nếu rơi vào một trong hai trường hợp trên, thì sẽ bị tuyên hủy bởi Toà án.
Tuy nhiên, để đảm bảo rằng một phán quyết chỉ bị huỷ nếu như nó không đảm bảo khách quan và công bằng, thì “Tòa án chỉ xem xét việc xác định chứng cứ giả mạo nếu có chứng cứ chứng minh cho yêu cầu đó và chứng cứ đó phải có liên quan đến việc ra phán quyết, có ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết. Tòa án phải căn cứ vào quy định Luật TTTM, quy tắc tố tụng trọng tài, thỏa thuận của các bên và quy tắc xem xét, đánh giá chứng cứ mà Hội đồng trọng tài áp dụng khi giải quyết vụ việc để xác định chứng cứ giả mạo.”
(5) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam (điểm đ khoản 2 Điều 68)
“Trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” được hiểu là “vi phạm các nguyên tắc xử sự cơ bản có hiệu lực bao trùm đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật Việt Nam.”
Khi xem xét yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, Tòa án phải xác định được phán quyết trọng tài có vi phạm một hoặc nhiều nguyên tắc cơ bản của pháp luật và nguyên tắc đó có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp của Trọng tài. Tòa án chỉ hủy phán quyết trọng tài sau khi đã chỉ ra được rằng phán quyết trọng tài có nội dung trái với một hoặc nhiều nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam mà Hội đồng trọng tài đã không thực hiện nguyên tắc này khi ban hành phán quyết trọng tài và phán quyết trọng tài xâm phạm nghiêm trọng lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của một hoặc các bên, người thứ ba.
Như vậy, trong khi bốn căn cứ huỷ phán quyết trọng tài tại các điểm a, b, c, d khoản 2 Điều 68 Luật TTTM đều nhằm hướng tới việc bảo vệ lợi ích của các đương sự trong tranh chấp thương mại - tức là các lợi ích dân sự; thì căn cứ ở điểm đ này lại hướng đến việc bảo vệ là những giá trị chung có tính cơ bản, bao trùm về kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, sự công bằng. Nó có thể là lợi ích công, trật tự công, lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích nhà nước, đạo đức xã hội,… hoặc lợi ích của công dân, chủ thể khác không liên quan tới quan hệ tranh chấp, nhưng phán quyết trọng tài đã xâm phạm lợi ích của họ. Chính từ đặc điểm này, mà khoản 3 Điều 68 Luật TTTM đã quy định rằng: nghĩa vụ chứng minh đối với yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài theo điểm đ khoản 2 Điều này thuộc về Toà án, chứ không phải một bên tranh chấp như các trường hợp còn lại.
Như vậy, sau khi xem xét các căn cứ để một phán quyết trọng tài bị Tòa án tuyên huỷ, có thể rút ra một số kết luận chính sau đây:
Một là, trừ trường hợp tại điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật TTTM thì các căn cứ để huỷ phán quyết trọng tài được quy định hiện nay đều là những trường hợp phán quyết trọng tài có sai sót về trình tự, thủ tục hoặc thẩm quyền; mà những sai sót này đã ảnh hưởng đến tính công bằng và khách quan của phán quyết đến mức một bên tranh chấp bị thiệt hại lợi ích. Như vậy, Tòa án sẽ không xem xét đến nội dung của phán quyết trọng tài.
Hai là, Tòa án chỉ ra quyết định huỷ phán quyết trọng tài nếu phán quyết đó đáp ứng đầy đủ cả hai điều kiện tại khoản 1 và 2 Điều 68 Luật TTTM. Nếu không, Tòa án sẽ ra quyết định không hủy phán quyết trọng tài. Phán quyết trọng tài khi đó sẽ có giá trị cưỡng chế thi hành như bản án của Toà án. Điều này cho thấy địa vị Toà án trong trường hợp này là một cơ quan giải quyết tranh chấp độc lập với trọng tài. Toà án không phải là một cơ quan cấp trên của Trọng tài.
Tuy Luật TTTM và các văn bản hướng dẫn đã quy định chi tiết về các trường hợp hủy phán quyết trọng tài, nhưng các quy định này vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng, chưa chặt chẽ, có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau khiến cho việc áp dụng pháp luật tùy tiện, dẫn đến hậu quả là nhiều phán quyết trọng tài bị hủy.
Thứ nhất, căn cứ “phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” được quy định quá chung chung, không rõ ràng nên việc áp dụng một cách tùy tiện là không thể tránh khỏi. Đến nay, vẫn chưa có quy định nào hướng dẫn “những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” là những nguyên tắc nào. Gần như trong các bộ luật, luật ở nước ta đều có những quy định về “nguyên tắc”. Hơn nữa, ở nước ta, bên yêu cầu và thẩm phán thường có xu hướng hiểu nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam theo nghĩa rộng, dễ vận dụng để hủy phán quyết trọng tài.
Thứ hai, với căn cứ “thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật TTTM”, nhiều tòa án đã nhận định không đúng về hành vi bị coi là vi phạm pháp luật trọng tài hoặc nhận định không đúng mức độ vi phạm và tính nghiêm trọng nên hủy phán quyết trọng tài khá tuỳ tiện. Mặc dù Luật TTTM và Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP có quy định về việc tòa án tạo điều kiện cho Hội đồng trọng tài khắc phục sai sót trong tố tụng trọng tài nhằm loại bỏ căn cứ hủy bỏ phán quyết trọng tài, tuy nhiên trên thực tế điều này hoàn toàn phụ thuộc vào sự thiện chí và quan điểm của tòa án.
Từ những phân tích trên, nhóm chúng em xin đưa ra một số kiến nghị như sau:
Đối với điểm b khoản 2 Điều 68 Luật TTTM, kiến nghị chỉ nên hủy phán quyết nếu: (i) vi phạm của trọng tài rõ ràng làm ảnh hưởng đến kết quả giải quyết tranh chấp, và (ii) Tòa án đã yêu cầu trọng tài khắc phục sai sót theo khoản 7 Điều 71 Luật TTTM nhưng không khắc phục được hoặc sai sót đó là không thể khắc phục được.
Đối với điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật TTTM, kiến nghị Tòa án nhân dân tối cao liệt kê các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam và hướng dẫn cách vận dụng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Thương mại 2005
2. Luật Trọng tài thương mại 2010
3. Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Trọng tài thương mại
4. Quy tắc của Toà án Trọng tài Quốc tế (ICC)
5. Quy tắc Tố tụng Trọng tài của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC)
6. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam (tập II), NXB. Tư pháp, 2020
7. Ưu điểm của Trọng tài thương mại, VIAC.vn, Địa chỉ truy cập: https://www.viac.vn/thu-tuc-trong-tai/uu-diem-cua-trong-tai-thuong-mai-a44.html (truy cập ngày 08/10/2021)
8. ThS. Vũ Hoàng, Hủy phán quyết trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam và một số kiến nghị, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam, https://lsvn.vn/huy-phan-quyet-trong-tai-thuong-mai-theo-phap-luat-viet-nam-va-mot-so-kien-nghi1610677477.html (truy cập ngày 08/10/2021)
9. Tưởng Duy Lượng, Một số vấn đề về xem xét hủy phán quyết trọng tài, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/xet-xu/mot-so-van-de-ve-xem-xet-huy-phan-quyet-trong-tai (truy cập ngày 08/10/2021)
10. Bùi Xuân Hải, Luận bàn về các nguyên nhân của tình trạng hủy phán quyết trọng tài ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam, https://tapchikhplvn.hcmulaw.edu.vn/module/xemchitietbaibao?oid=e1d80e90-2c25-456a-a0a6-bade8386fc30 (truy câp ngày 09/10/2021)
Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU
Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395
.png)
0 nhận xét