Quy chế thành viên hợp tác xã theo quy định pháp luật hiện hành

tháng 10 01, 2023

 

MỞ ĐẦU

Hợp tác xã là một hình thức tổ chức kinh tế tập thể đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế ở nhiều quốc gia. Ở Việt Nam, kinh tế hợp tác xã được quan tâm phát triển ngay từ những ngày đầu giành độc lập. Trải qua những thời kì khó khăn, tưởng chừng như không thể tồn tại được, đến nay, với sự quan tâm của Đảng và nhà nước, hợp tác xã đang dần lấy lại vị thế của mình và đóng vai trò tích cực trong sự phát triển kinh tế - xã hội. 

Nhận thức được tầm vai trò của hợp tác xã trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, sau đây em xin trình bày về đề tài: “Quy chế thành viên hợp tác xã theo quy định pháp luật hiện hành” để có một cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về vấn đề này.

NỘI DUNG

I. Khái quát chung về hợp tác xã

1. Khái niệm hợp tác xã

Khoản 1 Điều 3 Luật Hợp tác xã 2012 định nghĩa: Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lí hợp tác xã.

Việc Luật hợp tác xã 2012 xác định rõ hợp tác xã không phải là doanh nghiệp là bước tiến bộ về mặt luật pháp so với các Luật hợp tác xã trước đây. Quy định này của Luật hợp tác xã 2012 đã góp phần làm rõ hơn bản chất hợp tác xã là tổ chức kinh tế thuộc thành phần kinh tế tập thể, quản lý dân chủ, tự chịu trách nhiệm, đồng sở hữu hợp tác xã, hợp tác xã thành lập để hợp tác tương trợ nhau trong sản xuất, kinh doanh, đồng thời cũng phần làm giảm bớt số lượng doanh nghiệp núp dưới danh hợp tác xã và tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển mô hình kinh tế tập thể này.

2. Đặc điểm của hợp tác xã

Thứ nhất, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tập thể, có các thành viên là cá nhân hoặc tổ chức.

Thứ hai, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc.

Thứ ba, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân.

Thứ tư, hợp tác xã được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm.

Thứ năm, hợp tác xã thực hiện việc phân phối thu nhập cho các thành viên theo lao động, theo vốn góp và theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã.

Thứ sáu, hợp tác xã được hưởng các chính sách bảo đảm, hỗ trợ và ưu đãi của nhà nước.

3. Vai trò của hợp tác xã trong nền kinh tế thị trường

* Đối với nền kinh tế:

Hợp tác xã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành viên, trong đó có hoạt động kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của từng thành viên, từ đó tạo ra nguồn tăng trưởng, góp phần vào tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế, đem lại lợi ích kinh tế cho thành viên, xã hội và nhà nước, góp phần tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế ở địa phương.

* Đối với nền chính trị:

Tổ chức hợp tác xã làm dịu bớt mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, giữa giới chủ và lao động làm thuê, đồng thời làm dịu bớt sự cạnh tranh không cần thiết trên thị trường, nhất là đối với những người sản xuất nhỏ, giúp đoàn kết các thành viên. Do đó, hợp tác xã góp phần định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường.

* Đối với xã hội:

Hoạt động của hợp tác xã bổ sung cho những nỗ lực vĩ mô của nhà nước như cấp vốn cho người nghèo, tạo công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, ổn định tình hình trật tự kinh tế, chính trị, xã hội… Tổ chức hợp tác xã phát triển sâu rộng góp phần hình thành nên giá trị hợp tác được xã hội thừa nhận, trở thành giá trị định hướng cho toàn xã hội: trung thực, đoàn kết, công bằng, dân chủ, chăm lo cho mình và cho cả người khác. Từ đó góp phần ổn định và phát triển chung của toàn xã hội.

II. Chế độ pháp lí thành viên hợp tác xã

1. Quy định về điều kiện trở thành thành viên hợp tác xã

a) Điều kiện về tư cách chủ thể

Điểm a Khoản 1 Điều 13 Luật hợp tác xã 2012 quy định về điều kiện về tư cách chủ thể để trở thành thành viên của hợp tác xã như sau: Cá nhân là công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam, từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; hộ gia đình có người đại diện hợp pháp theo quy định của pháp luật; cơ quan, tổ chức là pháp nhân Việt Nam.

* Đối với cá nhân:

Cá nhân muốn trở thành thành viên hợp tác xã phải đáp ứng các yêu cầu là công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam, từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. 

So với quy định của Luật hợp tác xã 2003, Luật hợp tác xã 2012 đã mở rộng thêm đối tượng người nước ngoài. Theo đó, “người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam, từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ” được tham gia hợp tác xã. Quy định này tạo điều kiện cho cá nhân nước ngoài cư trú ở Việt Nam nếu có nhu cầu góp vốn, góp sức có thể tham gia vào hợp tác xã, đồng thời cũng tạo thêm khả năng phát triển của hợp tác xã khi có điều kiện giao lưu với nước ngoài. Điều này phù hợp với nguyên tắc hợp tác xã kết nạp rộng rãi thành viên, đồng thời tạo điều kiện cho hợp tác xã thu hút các nguồn vốn khác nhau và phù hợp tiến trình hội nhập quốc tế.

Luật cán bộ, công chức 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) và Luật phòng chống tham nhũng 2018 quy định cán bộ, công chức không được thành lập, tham gia thành lập hoặc tham gia quản lý, điều hành, nhưng có thể trở thành thành viên của hợp tác xã nếu có đủ điều kiện.

* Đối với hộ gia đình:

Hộ gia đình có thể trở thành thành viên hợp tác xã là hộ gia đình mà các thành viên trong hộ có tài sản chung để hoạt động kinh tế như diện tích đất sử dụng vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, những tài sản cổ định khác phục vụ sản xuất, kinh doanh của hộ gia đình. Hộ gia đình phải cử người đại diện bằng giấy ủy quyền. Người đại diện của hộ gia đình phải có đủ các điệu kiện như đối với cá nhân theo quy định của pháp luật và Điều lệ của hợp tác xã. 

Khi đáp ứng các điều kiện trên, hộ gia đình có thể trở thành thành viên hợp tác xã, trừ hợp tác xã tạo việc làm. Việc hộ gia đình có thể trở thành thành viên hợp tác xã đã ghi nhận vai trò của kinh tế hộ gia đình, hình thức sản xuất vừa và nhỏ phù hợp với tập quán làm ăn trong nông, lâm, ngư nghiệp và các ngành nghề khác ở nước ta.

* Đối với pháp nhân Việt Nam:

Luật hợp tác xã quy định tổ chức muốn trở thành thành viên hợp tác xã, tổ chức phải là pháp nhân.

Theo Khoản 1 Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015, một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:

- Được thành lập theo quy định của luật

- Có cơ cấu tổ chức theo quy định của luật

- Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình

- Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.

b) Điều kiện về ý chí chủ thể

Các chủ thể nêu trên nếu tán thành điều lệ hợp tác xã, tự nguyện làm đơn xin gia nhập hợp tác xã, được Hội đồng quản trị xét kết nạp và Đại hội thành viên thông qua sẽ trở thành thành viên hợp tác xã.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 13 Luật hợp tác xã 2012, khi muốn gia nhập hợp tác xã, thành viên phải có nhu cầu hợp tác với các thành viên và nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã, có đơn tự nguyện gia nhập và góp vốn vào hợp tác xã.

Việc gia nhập hợp tác xã của mỗi cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân là hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện, không bị cưỡng chế, cưỡng ép. Mọi cá nhân không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo, thành phần giai cấp, mọi hộ gia đình, mọi pháp nhân đủ điều kiện theo quy định của pháp luật, tán thành điều lệ hợp tác xã đều có quyền gia nhập hợp tác xã.

Khi thành viên thấy việc tham gia hợp tác xã không còn cần thiết, thành viên có quyền làm đơn tự nguyện xin ra khỏi hợp tác xã và được hưởng các quyền lợi, cũng như có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ còn lại theo điều lệ của hợp tác xã.

Hợp tác xã do chính các thành viên tự nguyện góp vốn lập ra, nhằm đáp ứng những yêu cầu chung, lợi ích chung do chính mình đặt ra. Yếu tố tự nguyện sẽ quyết định mọi thành công trong hoạt động của hợp tác xã. Mọi sự ép buộc sẽ làm suy giảm tính tích cực, sáng tạo, chủ động của thành viên đối với việc xây dựng hợp tác xã.

2. Quy định về quyền và nghĩa vụ của thành viên hợp tác xã

a) Quyền của thành viên hợp tác xã

Theo Điều 14 Luật hợp tác xã 2012, thành viên hợp tác xã có các quyền sau:

- Quyền được hợp tác xã cung ứng sản phẩm, dịch vụ 

Với mục đích hoạt động lấy lợi ích của thành viên làm trung tâm, hợp tác xã trước khi cung ứng sản phẩm, dịch vụ ra thị trường cần đảm bảo đáp ứng nhu cầu trong nội bộ hợp tác xã. Do đó, việc hợp tác xã cung ứng sản phẩm, dịch vụ cho những cá nhân, tổ chức không phải thành viên hợp tác xã chỉ được coi là thứ yếu, tỉ lệ cung cấp ra thị trường hay sử dụng lao động ngoài thị trường cũng bị pháp luật hạn chế ở mức: không quá 50% tổng giá trị cung ứng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đối với lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp; đối với trường hợp hợp tác xã tạo việc làm, tiền lương trả cho người lao động không phải là thành viên với hợp đồng lao động không xác định thời hạn không quá 30% tổng tiền lương của hợp tác xã chi trả cho tất cả người lao động trong hợp tác xã với hợp đồng không xác định thời hạn. 

Quyền yêu cầu hợp tác xã cung ứng dịch vụ, sản phẩm theo nhu cầu trên cơ sở hợp đồng dịch vụ của thành viên hợp tác xã là quyền mới dành cho thành viên mà Luật hợp tác xã 2003 chưa đề cập đến. Điều này hoàn toàn phù hợp bởi lẽ hợp tác xã được hình thành xuất phát từ nhu cầu đáp ứng lợi ích của các thành viên, hợp tác xã hoạt động để đáp ứng nhu cầu của thành viên, nhiệm vụ của hợp tác xã là chăm lo, quan tâm đến các thành viên của mình.

Tuy nhiên, hiện nay Luật cũng không quy định rõ về “nhu cầu” mà hợp tác xã phải hoàn thành với thành viên được xác định theo cơ chế nào (có phải đăng kí trước để tránh nhu cầu phát sinh không). Do đó trong thực tế, điều lệ hợp tác xã hoặc quy chế nội bộ cần quy định rõ nhằm giảm thiểu rủi ro, mâu thuẫn giữa hợp tác xã với thành viên, tránh phá vỡ tính hợp tác bền vững của hợp tác xã.

- Quyền được hưởng thu nhập từ hợp tác xã

Nếu như trong doanh nghiệp, lợi nhuận thu được được phân chia cho các thành viên chủ yếu theo tỉ lệ vốn góp thì trong hợp tác xã, thu nhập phân chia chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã. Trong hợp tác xã, thành viên nào sử dụng nhiều sản phẩm, dịch vụ do hợp tác xã cung ứng thì được hưởng nhiều thu nhập hơn. Sau khi phân chia lợi nhuận theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã, phần lợi nhuận còn lại sẽ được phân chia tiếp cho các thành viên hợp tác xã theo tỉ lệ vốn góp của từng thành viên vào hợp tác xã.

- Quyền được hưởng các phúc lợi của hợp tác xã

Phúc lợi là khoản thù lao gián tiếp trả dưới dạng hỗ trợ về cuộc sống dành cho người lao động. Chế độ phúc lợi của hợp tác xã là những chương trình được thực hiện để trợ giúp những người khi trở thành thành viên của hợp tác xã. Chúng có thể bao gồm: phụ cấp tiền ăn học cho con em các gia đình là thành viên hợp tác xã chưa đến 18 tuổi, chăm lo đời sống tinh thần, vui chơi, giải trí, chế độ tử tuất…

- Quyền được tham gia quản lí hợp tác xã 

Quy định pháp luật về quyền quản lí hợp tác xã dựa trên nguyên tắc bình đẳng, dân chủ của các thành viên hợp tác xã. Theo đó, yếu tố vốn góp không có sự chi phối tới “tiếng nói” của các thành viên trong hợp tác xã. Việc thông qua các quyết định của hợp tác xã dựa trên nguyên tắc đa số thành viên biểu quyết. Mỗi thành viên tham dự đại hội thành viên đều có một phiếu biểu quyết. Phiếu biểu quyết có giá trị ngang nhau, không phụ thuộc vào số vốn góp hay chức vụ của thành viên. Thành viên được tham dự đại hội thành viên hợp tác xã, ứng cử hoặc đề cử các thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên và các chức danh khác được bầu của hợp tác xã.

- Quyền giám sát hoạt động của hợp tác xã

Thành viên hợp tác xã được kiến nghị, yêu cầu người quản lí của hợp tác xã phải giải trình về hoạt động quản lí hợp tác xã, yêu cầu hội đồng quản trị, ban kiểm soát (kiểm soát viên) triệu tập đại hội thành viên bất thường. Nhóm thành viên đại diện ít nhất một phần ba tổng số thành viên hợp tác xã có quyền triệu tập đại hội thành viên. Như vậy, bên cạnh ban kiểm soát làm việc chuyên trách, từng cá thể là thành viên hợp tác xã cũng được ghi nhận quyền này, đảm bảo vị trí “làm chủ” của mình.

- Quyền được cung cấp thông tin cần thiết liên quan đến hoạt động của hợp tác xã; được hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ nghiệp vụ 

Đây là một trong những quyền lợi cơ bản của thành viên hợp tác xã cũng là nghĩa vụ cơ bản của hợp tác xã đối với thành viên. Hợp tác xã phải đảm bảo được không chỉ chức năng kinh tế thông qua việc phân phối thu nhập cho các thành viên mà còn phải đảm bảo được chức năng xã hội của mình. Có nghĩa, lợi ích nhận được của thành viên hợp tác xã không chỉ là lợi ích về kinh tế mà còn là những lợi ích phi vật chất khác. Tuy nhiên, để quyền này được tôn trọng và thực thi trên thực tế, Nhà nước cần có những cơ chế giám sát, chế tài rõ ràng đối với các hợp tác xã.

- Quyền được tự nguyện ra khỏi hợp tác xã

Với nguyên tắc tự nguyện, các thành viên có quyền ra khỏi hợp tác xã nếu có yêu cầu. Trong mọi trường hợp, khi ra khỏi hợp tác xã, thành viên hợp tác xã đều được hợp tác xã trả lại vốn góp nhằm đảm bảo quyền lợi về mặt tài sản cho thành viên. Khi ra khỏi hợp tác xã, thành viên hợp tác xã được chia giá trị tài sản theo giá trị vốn góp. Tài sản hoặc giá trị phần vốn góp không chia được thì chuyển nhượng cho người khác. Nếu không chuyển nhượng được thì theo điều lệ của hợp tác xã quy định có thể được hợp tác xã mua lại.

- Quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện theo quy định của pháp luật

Quyền khiếu nại, tố cáo là những quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp 2013. Quyền khiếu nại, tố cáo là thể hiện sự dân chủ trong hợp tác xã và là một trong những phương thức thực hiện quyền giám sát của thành viên đối với hoạt động của hợp tác xã. Đây là phương tiện để các thành viên trong hợp tác xã đấu tranh chống lại các hành vi trái pháp luật, chuyên quyền, quan liêu, nhằm bảo vệ lợi ích của hợp tác xã, của mình, thúc đẩy sự phát triển của hợp tác xã.

Từ những phân tích trên, ta thấy, các quy định về quyền của thành viên hợp tác xã theo Luật hợp tác xã đã bảo đảm cho các thành viên phát huy tiềm năng về vốn, tài chính, kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh trong các lĩnh vực hoạt động của hợp tác xã. 

b) Quy định về nghĩa vụ của thành viên hợp tác xã

Trong các hợp tác xã, quyền và nghĩa vụ của thành viên tạo thành một thể thống nhất. Các thành viên hợp tác xã được hưởng các quyền chính đáng nhưng cũng phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định theo Điều 15 Luật Hợp tác xã 2012.

- Nghĩa vụ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã

Đối với hợp tác xã tạo việc làm, thành viên hợp tác xã chính là người lao động trong hợp tác xã. Đối với các hợp tác xã khác, thành viên hợp tác xã phải là khách hàng tiêu thụ sản phẩm, sử dụng dịch vụ của hợp tác xã. Luật hiện hành đã quy định cụ thể chế tài về việc thành viên liên tục không sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã trong thời gian 03 năm, không làm việc liên tục trong thời gian 02 năm (nếu điều lệ hợp tác xã không quy định thời gian ngắn hơn). Thông qua quy định này, có thể thấy rõ vai trò của thành viên hợp tác xã trong hoạt động của hợp tác xã

- Nghĩa vụ góp vốn 

Thành viên hợp tác xã có nghĩa vụ góp đủ vốn đã cam kết. Theo Luật hợp tác xã 2012, mức vốn góp của thành viên không vượt quá 20% vốn điều lệ của hợp tác xã (giảm so với 30% theo Luật hợp tác xã 2003). Việc quy định giảm tỉ lệ vốn góp của thành viên đã tạo ra sự công bằng hơn đối với các thành viên khi chia lợi nhuận.

Thời hạn góp đủ vốn cam kết theo Luật hợp tác xã 2012 là không quá 06 tháng kể từ ngày được kết nạp hoặc từ ngày hợp tác xã được cấp giấy đăng ký kinh doanh, còn theo Luật hợp tác xã 2003 là 01 năm kể từ lần góp đầu (Khoản 3 Điều 14 Nghị định 177/2004/NĐ-CP). 

Luật hợp tác xã 2012 không quy định về góp vốn lần đầu của thành viên nhưng lại rút ngắn thời gian góp đủ vốn cam kết góp vào hợp tác xã, việc quy định như vậy tạo điều kiện cho nhiều người có nhu cầu và mong muốn tham gia sản xuất kinh doanh trong hợp tác xã nhưng chưa có vốn cũng có thể trở thành thành viên của hợp tác xã. Tuy vậy, Luật hợp tác xã 2012 đã quy định rút ngắn thời gian góp đủ vốn nhằm đảm bảo hợp tác xã hoạt động có hiệu quả vì nếu kéo dài thời gian góp đủ vốn có thể làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của hợp tác xã do không đủ nguồn tài chính để hoạt động.

- Nghĩa vụ chịu rủi ro trong phạm vi vốn góp vào hợp tác xã

Đi cùng với việc hưởng lợi từ hoạt động sản xuất, kinh doanh thì các thành viên hợp tác xã cũng phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ, nghĩa vụ tài chính của hợp tác xã trong phạm vi vốn góp vào hợp tác xã.

- Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do mình gây ra cho hợp tác xã

Bồi thường thiệt hại bao gồm bồi thường thiệt hại về vật chất và bồi thường thiệt hại về tinh thần, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Hợp tác xã là một tổ chức có tư cách pháp nhân, mọi hành vi xâm phạm đến tái sản hay danh dự của hợp tác xã do thành viên hợp tác xã gây ra đều phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

- Nghĩa vụ tuân thủ điều lệ và các quy chế nội bộ

Hợp tác xã là tổ chức kinh tế thuộc thành phần kinh tế tập thể, có tư cách pháp nhân. Do đó, kể từ thời điểm được cấp giấy chứng nhận đăng kí, hợp tác xã có tư cách độc lập, có điều lệ hoạt động. Khi đó, một mặt, các thành viên hợp tác xã là đồng sở hữu tài sản hợp tác xã và cùng quản lí hợp tác xã. Mặt khác, các thành viên hợp tác xã cũng phải tuân thủ điều lệ và các quy chế nội bộ khác, mà thực chất chính là những văn bản pháp lí nội bộ do tập thể thành viên hợp tác xã ban hành.

3. Quy định về việc chấm dứt tư cách thành viên hợp tác xã

Chấm dứt tư cách thành viên hợp tác xã là việc kết thúc mối quan hệ giữa thành viên hợp tác xã với hợp tác xã, từ đó chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa hai bên. 

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 16 Luật hợp tác xã 2012, tư cách thành viên bị chấm dứt khi xảy ra một trong các trường hợp sau:

(1) Thành viên hợp tác xã không đáp ứng yêu cầu về năng lực chủ thể tham gia vào hợp tác xã.

Luật hợp tác xã 2012 quy định cụ thể các trường hợp đó là thành viên là cá nhân chết, bị tòa án tuyên bố là đã chết, mất tích, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị kết án phạt tù theo quy định của pháp luật; thành viên là hộ gia đình không có người đại diện hợp pháp theo quy định của pháp luật; thành viên là pháp nhân bị giải thể, phá sản; hợp tác xã bị giải thể, phá sản. 

(2) Thành viên hợp tác xã tự nguyện ra khỏi hợp tác xã.

Quy định này tạo điều kiện nhất định cho quyền tự nguyện của thành viên hợp tác xã khi cảm thấy việc duy trì tư cách xã viên hợp tác xã không còn phù hợp với họ thì họ có thể tự mình chấm dứt tư cách thành viên của mình.

(3) Thành viên hợp tác xã bị khai trừ ra khỏi hợp tác xã.

Thành viên của hợp tác xã bị khai trừ là sự kiện đưa thành viên đó ra khỏi hợp tác xã, không công nhận thể nhân, pháp nhân đó là thành viên hợp tác xã. Luật hợp tác xã 2012 chỉ quy định thành viên bị khai trừ theo quy định của điều lệ mà không nêu rõ lý do khai trừ cụ thể.

Thẩm quyền khai trừ thành viên hợp tác xã thuộc về Hội đồng quản trị nhưng phải có báo cáo cho Đại hội thành viên vào kỳ họp gần nhất. Thành viên hợp tác xã khi bị khai trừ phải được biết lý do bị khai trừ của mình, được nhận quyết định bằng văn bản của Hội đồng quản trị về việc khai trừ thành viên và Biên bản hoặc nghị quyết của Đại hội thành viên về việc khai từ thành viên hợp tác xã.

(4) Thành viên hợp tác xã không sử dụng sản phẩm, dịch vụ trong thời gian liên tục theo quy định của điều lệ nhưng không quá 03 năm (đối với hợp tác xã việc làm là không quá 02 năm).

Đây là trường hợp chấm dứt tư cách thành viên bổ sung so với Luật hợp tác xã 2003. Nếu một thành viên không sử dụng sản phẩm, dịch vụ trong thời gian dài thì không thể giúp hợp tác xã phát triển, cũng không được chia lợi nhuận và cũng không thực hiện nghĩa vụ của mình, do đó sẽ bị chấm dứt tư cách thành viên.

(5) Tại thời điểm cam kết góp đủ vốn, thành viên hợp tác xã không góp vốn hoặc góp vốn thấp hơn vốn góp tối thiểu quy định trong điều lệ.

Luật hợp tác xã 2012 xác định rõ góp vốn là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi thành viên khi tham gia vào hợp tác xã. Vì vậy, việc không thực hiện đúng hay đầy đủ nghĩa vụ thành viên của mình sẽ là căn cứ để hợp tác xã chấm dứt tư cách thành viên của chính thành viên đó.

III. Một số bất cập của quy chế pháp lý hiện hành về thành viên hợp tác xã

1. Về việc phân loại thành viên hợp tác xã

Luật hợp tác xã 2012 chưa có quy định về việc phân loại thành viên hợp tác xã. Việc phân loại thành viên hợp tác xã vô cùng hữu ích khi xác định đối tượng được hưởng ưu đãi hoặc xác định tỷ lệ giá trị giao dịch giữa hợp tác xã với thành viên của hợp tác xã.

Theo Luật Hợp tác xã Quebec của Canada, thành viên hợp tác xã được chia thành hai loại: thành viên chính thức và thành viên liên kết. Thành viên hợp tác xã chính thức là những người trực tiếp sử dụng dịch vụ của hợp tác xã. Thành viên hợp tác xã liên kết là người trung gian giữa hợp tác xã và người trực tiếp sử dụng dịch vụ của hợp tác xã. Thành viên liên kết được sử dụng dịch vụ của hợp tác xã, được phân phối thặng dư theo mức độ sử dụng dịch vụ nhưng không được quyền biểu quyết, không có quyền tham gia vào hội đồng quản trị hay ban kiểm soát.

2. Về điều kiện trở thành thành viên hợp tác xã đối với hộ gia đình

Đối với đối tượng tham gia hợp tác xã là cá nhân người nước ngoài và pháp nhân Việt Nam, Chính phủ có quy định hướng dẫn chi tiết về điều kiện tham gia hợp tác xã trong Nghị định 193/2013/NĐ-CP. Tuy nhiên, các quy định này còn chưa cụ thể về điều kiện hộ gia đình và đặc biệt là quy định về điều kiện người đại diện hộ gia đình tại hợp tác xã.

3. Về phân phối thu nhập

Việc phân phối thu nhập của hợp tác xã theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ thể hiện đúng bản chất của hợp tác xã. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy bên cạnh việc khuyến khích thành viên hợp tác xã sử dụng dịch vụ của hợp tác xã, việc khuyến khích thành viên góp vốn, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp cũng cần được quan tâm.

Điểm a Khoản 3 Điều 46 Luật Hợp tác xã 2012 quy định: “Chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên, hợp tác xã thành viên; theo công sức lao động đóng góp của thành viên đối với hợp tác xã tạo việc làm…”. Việc điều luật sử dụng từ “chủ yếu” chưa thực sự hợp lý mà nên thay thế bằng từ khác để cân bằng việc phân phối thu nhập theo cả vốn góp và công sức.

4. Về quyền được cung cấp thông tin cần thiết liên quan đến hoạt động của hợp tác xã

Khoản 3 Điều 7 Luật hợp tác xã 2012 quy định: thành viên được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác về hoạt động sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối thu nhập và những nội dung khác theo quy định của điều lệ.

Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy, trong thời gian qua đã xảy ra không ít vi phạm quyền tiếp cận thông tin của thành viên như: HTX gây khó khăn trong việc thành viên thực hiện quyền của mình hoặc các HTX công bố thông tin không chính xác hoặc không hết nội dung, có những nội dung mập mờ khiến thành viên đánh giá không đúng về HTX… Có thể lý giải hiện tượng này là Luật Hợp tác xã năm 2012 và các văn bản hướng dẫn đều chưa làm rõ quyền này, cụ thể: Chưa xác định rõ ràng thông tin nào cần được cung cấp, cần được báo cáo, thông tin nào thuộc về bí mật của HTX; chưa hướng dẫn cách thức thực hiện, chế tài xử lý chưa rõ ràng trong trường hợp người quản lý HTX không cung cấp hoặc cung cấp không kịp thời, không chính xác thông tin về hoạt động sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối thu nhập và những nội dung khác theo quy định của điều lệ theo yêu cầu của thành viên HTX.

5. Về quyền tham gia quản lý hợp tác xã

Điều 31 Luật Hợp tác xã năm 2012 quy định: “Đại hội thành viên thường niên phải được họp trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày kết thúc năm tài chính do hội đồng quản trị triệu tập. Đại hội thành viên bất thường do hội đồng quản trị, ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên hoặc thành viên đại diện của ít nhất một phần ba tổng số thành viên, hợp tác xã thành viên triệu tập theo quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều này”. 

Quy định này xét về mặt tổng thể là hoàn toàn hợp lý nhưng trong thời gian qua, hội đồng quản trị của nhiều HTX không tổ chức đại hội thành viên hằng năm theo quy định đã dẫn đến hiện tượng xung đột lợi ích giữa thành viên với hội đồng quản trị. Luật Hợp tác xã 2012 chưa có quy định về nghĩa vụ và trách nhiệm của hội đồng quản trị trong trường hợp hội đồng quản trị không triệu tập họp đại hội thành viên.

Sự phát triển của các HTX phụ thuộc rất lớn vào đạo đức kinh doanh, kiến thức và khả năng cũng như tinh thần trách nhiệm của đội ngũ những người quản lý, điều hành HTX. Tuy nhiên, Luật Hợp tác xã 2012 chưa có những quy định về nghĩa vụ trung thực, cẩn trọng, trung thành của người quản lý và cơ chế pháp lý nào buộc những người quản lý phải tuân thủ những nghĩa vụ này. Đó chính là tiền đề cho việc xem xét đến hành vi vượt quá phạm vi của sự ủy quyền. 

Luật Hợp tác xã 2012 đã nâng cao vai trò của ban kiểm soát/kiểm soát viên trong việc kiểm soát nội bộ HTX. Tuy nhiên, hoạt động của ban kiểm soát/kiểm soát viên phần lớn mang tính hình thức và chưa có thực chất. Vì vậy, hiệu quả hoạt động của các ban kiểm soát/kiểm soát viên HTX chưa cao. Nguyên nhân của vướng mắc trên là chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm của ban kiểm soát/kiểm soát viên đối với đại hội thành viên trong trường hợp để hội đồng quản trị, giám đốc (tổng giám đốc) bội tín với sự ủy thác của đại hội thành viên, gây thiệt hại cho HTX.

6. Về chấm dứt tư cách thành viên hợp tác xã

Luật hợp tác xã 2012 không đề cấp đến việc chấm dứt tư cách thành viên trong trường hợp “xã viên chuyển hết vốn góp và các quyền lợi, nghĩa vụ của mình cho người khác theo quy định của Điều lệ hợp tác xã” như Luật hợp tác xã 2003. Trong trường hợp này, thành viên sẽ đương nhiên chấm dứt tư cách thành viên, tuy nhiên cần quy định cụ thể trong luật để có căn cứ pháp lý khi giải quyết vụ việc cụ thể.

Ngoài ra, đối với trường hợp chấm dứt tư cách thành viên hợp tác xã khi thành viên hợp tác xã đó bị khai trừ ra khỏi hợp tác tác, pháp luật chưa đưa ra quy định về lý do thành viên hợp tác xã sẽ bị khai trừ dẫn đến việc lạm dụng luật trong một số hợp tác xã.

IV. Một số đề xuất hoàn thiện quy chế pháp lý về thành viên hợp tác xã

Thứ nhất, Luật hợp tác xã cần bổ sung thêm quy định về phân loại thành viên hợp tác xã. Có thể phân thành hai loại là thành viên chính thức và thành viên liên kết.

Thứ hai, Luật hợp tác xã cần bổ sung quy định về điều kiện cho hộ gia đình là thành viên hợp tác xã nhằm tránh các tranh chấp nôi bộ xảy ra trong hợp tác xã.

Thứ ba, sửa đổi điểm a Khoản 3 Điều 49 Luật hợp tác xã 2012, thay từ “chủ yếu” bằng từ “ưu tiên”: “Ưu tiên theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên hợp tác xã theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên hợp tác xã…”

Thứ tư, Luật Hợp tác xã nên xác định rõ ràng thông tin nào cần được công bố, cần được báo cáo, thông tin nào thuộc về bí mật của HTX.

Thứ năm, quy định cụ thể trách nhiệm của thành viên hội đồng quản trị, giám đốc (tổng giám đốc) và người quản lý khác có trách nhiệm trong hợp tác xã.

Thứ sáu, bổ sung thêm quy định về chấm dứt tư cách thành viên hợp tác xã trong trường hợp “thành viên đã chuyển hết vốn góp và các quyền lợi, nghĩa vụ của mình cho người khác theo quy định của Điều lệ hợp tác xã”.

Thứ bảy, bổ sung thêm quy định về các trường hợp hợp tác xã được phép khai trừ thành viên hợp tác xã.

KẾT LUẬN

Qua những phân tích ở trên, ta thấy được quy định của Luật hợp tác xã 2012 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành đã hoàn thiện khung pháp lí cho thành viên hợp tác xã nói riêng và mô hình hợp tác xã nói chung. Địa vị pháp lí của thành viên hợp tác xã nhìn nhận đúng vị trí là “hạt nhân” của hợp tác xã. Việc pháp luật quy định nhiều ràng buộc pháp lí hơn đối với thành viên hợp tác xã và hợp tác xã nhằm mục đích bảo đảm sự phát triển bền vững của mô hình kinh tế tập thể này, qua đó đảm bảo quyền lợi của chính các cá nhân, tổ chức tham gia vào hợp tác xã.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

* Văn bản pháp luật:

1. Bộ luật Dân sự 2015

2. Luật hợp tác xã 2012

3. Luật hợp tác xã 2003

4. Luật cán bộ, công chức 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2019)

5. Luật phòng chống tham nhũng 2018

6. Nghị định 193/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật hợp tác xã

7. Nghị định 107/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 193/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật hợp tác xã

8. Nghị định 177/2004/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hợp tác xã năm 2003

* Giáo trình:

9. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam tập I, NXB. Tư pháp, Hà Nội, 2020

* Bài tạp chí:

10. Lê Hương Giang, Địa vị pháp lí của thành viên hợp tác xã theo quy định pháp luật hiện hành, Tạp chí Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, số 9/2016, trang 11 – 21

11. TS. Cao Đình Lành, Quyền của thành viên hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã 2012, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, só 10/2019, trang 39 – 44 

* Khóa luận:

12. Nguyễn Thị Hồng Anh, ThS. Lê Hương Giang hướng dẫn, Quy chế pháp lý về thành viên hợp tác xã theo Luật hợp xã 2012

Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU

Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

You Might Also Like

0 nhận xét