Thực trạng quy định về các biện pháp bảo đảm trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại

tháng 10 09, 2023

 

MỞ ĐẦU

Cho vay là một phương thức tài trợ truyền thống của ngân hàng. Hình thức biểu hiện cụ thể của hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đó là ngân hàng chuyển tiền trực tiếp cho khách hàng sử dụng theo yêu cầu hoặc mục đích tiêu dùng của khách hàng khi khách hàng đáp ứng được các yêu cầu ngân hàng đặt ra. Cho vay là hoạt động chính của ngân hàng, là hoạt động mang lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động cho vay của ngân hàng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro về tín dụng đối với ngân hàng trong trường hợp khách hàng không trả được tiền vay. Chính vì thế, trong hoạt động cho vay của ngân hàng, các biện pháp bảo đảm đóng vai trò quan trọng trong việc hạn chế rủi ro tín dụng cho ngân hàng.

Nhận thức được tầm quan trọng của các biện pháp bảo đảm trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại, sau đây em xin trình bày về đề tài: “Thực trạng quy định về các biện pháp bảo đảm trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại.” 

NỘI DUNG

I. Một số vấn đề chung về các biện pháp bảo đảm trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại

1. Khái niệm và đặc điểm của các biện pháp bảo đảm trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại

Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015) và các văn bản pháp luật hiện hành không đưa ra định nghĩa thế nào là “biện pháp bảo đảm”. Tuy nhiên, có thể hiểu rằng: Biện pháp bảo đảm là những cách thức, giải pháp nhằm hỗ trợ, khẳng định, bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng một cách chắc chắn. Biện pháp bảo đảm đi liền, không tách rời với nghĩa vụ chính trong hợp đồng chính. Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng, không đẩy đủ các nghĩa vụ đã cam kết, thì bên có quyền có thể áp dụng biện pháp bảo đảm đã thỏa thuận hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng để buộc bên có nghĩa vụ phải thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết nhằm bảo đảm quyền lợi cho mình. 

Các biện pháp bảo đảm trong hoạt động cho vay của ngân hàng có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, các biện pháp bảo đảm mang tính chất bổ sung cho nghĩa vụ chính của bên vay, đó là nghĩa vụ trả nợ.

Thứ hai, các biện pháp bảo đảm đều có mục đích nâng cao trách nhiệm của bên vay trong quan hệ cho vay của ngân hàng.

Thứ ba, phạm vi bảo đảm của các biện pháp bảo đảm không vượt quá phạm vi nghĩa vụ đã được xác định trong nội dung của quan hệ nghĩa vụ chính. 

Thứ tư, các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ chỉ được áp dụng khi bên vay có sự vi phạm nghĩa vụ trả nợ.

Thứ năm, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ sự thỏa thuận giữa ngân hàng và bên bảo đảm.

2. Một số biện pháp bảo đảm phổ biến trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại

Với bản chất là một tổ chức đặc thù có chức năng kinh doanh tiền tệ, ngân hàng thương mại thực hiện hoạt động kinh doanh của mình thông qua các quan hệ tín dụng, từ các quan hệ này, mối quan hệ giữa ngân hàng với các tổ chức, cá nhân được thiết lập và phát triển, gắn ngân hàng với các hoạt động sản xuất kinh doanh trong xã hội. Tuy nhiên, nếu không có những thiết chế cơ bản để bảo đảm các khoản tiền đi vay và cho vay hiệu quả, ngân hàng sẽ tự đặt mình trước những rủi ro khó lường đối với một loại hàng hóa vốn dĩ đã chứa đựng rất nhiều rủi ro, đó là “tiền tệ”. 

Điều 292 BLDS 2015 quy định chín biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bao gồm: cầm cố tài sản; thế chấp tài sản; đặt cọc; ký cược; ký quỹ; bảo lưu quyền sở hữu; bảo lãnh; tín chấp; cầm giữ tài sản. Tuy nhiên, trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại thì các biện pháp bảo đảm được sử dụng nhiều nhất là: cầm cố tài sản; thế chấp tài sản và bảo lãnh.

II. Thực trạng quy định pháp luật về các biện pháp bảo đảm trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại

1. Quy định của pháp luật về các biện pháp bảo đảm trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại

a) Cầm cố tài sản

Điều 309 BLDS quy định: “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.”

Đặc trưng của biện pháp cầm cố tài sản là bên cầm cố tài sản không giữ tài sản mà giao tài sản cho bên nhận cầm cố.

Chủ thể tham gia vào quan hệ cầm cố gồm hai bên: bên nhận cầm cố và bên cầm cố. Trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại, bên nhận cầm cố là ngân hàng thương mại còn bên cầm cố là các tổ chức, cá nhân có quan hệ vay vốn với ngân hàng thương mại hoặc người thứ ba không thuộc các bên chủ thể trong quan hệ cho vay. Chẳng hạn, A giao tài sản của mình cho ngân hàng để bảo đảm việc B trả khoản tiền mà B đã vay của ngân hàng.

Cầm cố tài sản là việc bên đi vay hoặc bên thứ ba giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho ngân hàng thương mại để đảm bảo cho khoản tiền mà bên vay xin vay. Tài sản cầm cố có thể là bất động sản hoặc động sản như phương tiện vận tải, thiết bị máy móc dùng cho sản xuất kinh doanh, sổ tiết kiệm, kỳ phiếu, kim khí quý… Tài sản dùng để cầm cố phải đáp ứng các điều kiện (i) phải thuộc quyền sở hữu của bên cầm cố; (ii) phải được phép chuyển giao.

Hợp đồng cầm cố có hiệu lực đối với các bên trong hợp đồng từ thời điểm giao kết và có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm ngân hàng nắm giữ tài sản cầm cố. Trong trường hợp tài sản cầm cố là bất động sản thì có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký.

Thời hạn cầm cố tài sản do các bên thỏa thuận. Nếu các bên không có thỏa thuận thì thời hạn cầm cố tài sản được tính từ thời điểm ngân hàng nhận tài sản cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ trả nợ.

Trong quan hệ cầm cố tài sản, bên cầm cố có nghĩa vụ giao tài sản cầm cố cho ngân hàng theo đúng thoả thuận; báo cho ngân hàng về quyền của người thứ ba đối với tài sản cầm cố (nếu có) và thanh toán cho ngân hàng chi phí hợp lý để bảo quản tài sản cầm cố, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

Bên cạnh đó, bên cầm cố có quyền yêu cầu ngân hàng chấm dứt việc sử dụng tài sản cầm cố nếu do sử dụng mà tài sản cầm cố có nguy cơ bị mất giá trị hoặc giảm sút giá trị; yêu cầu ngân hàng trả lại tài sản cầm cố và giấy tờ liên quan, nếu có khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt; yêu cầu ngân hàng bồi thường thiệt hại xảy ra đối với tài sản cầm cố; được bán, thay thế, trao đổi, tặng cho tài sản cầm cố nếu được ngân hàng đồng ý hoặc theo quy định của luật.

Về phía bên nhận cầm cố, ngân hàng có nghĩa vụ bảo quản, giữ gìn tài sản cầm cố; không được bán, trao đổi, tặng cho tài sản cầm cố; không được cho thuê, cho mượn, khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm cố, trừ trường hợp có thỏa thuận khác; trả lại tài sản cầm cố và giấy tờ liên quan, nếu có khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác.

Cùng với đó, ngân hàng có quyền yêu cầu người đang chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật tài sản cầm cố trả lại tài sản đó; xử lý tài sản cầm cố theo phương thức đã thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật; được cho thuê, cho mượn, khai thác công dụng tài sản cầm cố và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm cố, nếu có thoả thuận; được thanh toán chi phí hợp lý bảo quản tài sản cầm cố khi trả lại tài sản cho bên cầm cố.

Khi đến thời hạn phải thực hiện nghĩa vụ mà bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ thì ngân hàng có quyền xử lý tài sản cầm cố. Nếu các bên đã thỏa thuận về phương thức xử lý tài sản cầm cố thì ngân hàng được xử lý tài sản theo phương thức đó. Trường hợp các bên chưa thỏa thuận về phương thức xử lí tài sản cầm cố thì tài sản cầm cố được bán đấu giá theo quy định của pháp luật.

Theo Điều 315 BLDS 2015, cầm cố tài sản chấm dứt trong các trường hợp: (1) Nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt; (2) Việc cầm cố tài sản được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác; (3) Tài sản cầm cố đã được xử lý; (4) Theo thoả thuận của các bên. Khi việc cầm cố tài sản chấm dứt theo trường hợp (1) và (2) hoặc theo thỏa thuận của các bên thì tài sản cầm cố, giấy tờ liên quan đến tài sản cầm cố được trả lại cho bên cầm cố. Hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản cầm cố cũng được trả lại cho bên cầm cố, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

b) Thế chấp tài sản

Khoản 1 Điều 317 BLDS 2015 quy định: “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp).”

Đặc trưng của biện pháp thế chấp tài sản là bên thế chấp không giao tài sản cho bên nhận thế chấp mà bên thế chấp mà vẫn giữ tài sản hoặc giao tài sản cho bên thứ ba.

Chủ thể trong quan hệ thế chấp tài sản gồm có bên thế chấp và bên nhận thế chấp. Trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại, bên nhận thế chấp là ngân hàng thương mại còn bên thế chấp là các tổ chức, cá nhân có quan hệ vay vốn với ngân hàng thương mại hoặc người thứ ba không thuộc các bên chủ thể trong quan hệ cho vay. Chẳng hạn, A thế chấp tài sản của mình cho ngân hàng để bảo đảm việc B trả khoản tiền mà B đã vay của ngân hàng.

Tài sản thế chấp có thể là vật, quyền tài sản, giấy tờ có giá, có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương  lai. Tài sản đang cho thuê, cho mượn cũng có thể được dùng để thế chấp. 

Bên thế chấp phải giao toàn bộ giấy tờ về tài sản thế chấp cho ngân hàng nếu có thỏa thuận. Bên thế chấp phải thông báo cho ngân hàng biết các quyền của người thứ ba đối với tài sản thế chấp. 

Nếu các bên không có thỏa thuận khác thì bên thế chấp vẫn giữ tài sản và được khai thác công dụng của tài sản, được hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản thế chấp. Bên thế chấp phải bảo quản, giữ gìn tài sản thế chấp và phải áp dụng các biện pháp cần thiết để khắc phục nguy cơ thiệt hại tới tài sản. Bên thế chấp không được bán, trao đổi, tặng, cho tài sản thế chấp và chỉ được cho thuê, cho mượn hoặc dùng tài sản thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.

Ngân hàng có quyền giữ các giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp trong trường hợp các bên có thỏa thuận, xem xét, kiểm tra trực tiếp tài sản thế chấp và thực hiện việc đăng ký thế chấp theo quy định của pháp luật.

Nếu đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì ngân hàng có quyền xử lý tài sản thế chấp. Nếu các bên đã thỏa thuận phương thức xử lý tài sản thế chấp thì thực hiện theo thỏa thuận của các bên. Nếu các bên không có thỏa thuận thì việc xử lý tài sản thế chấp được thực hiện thông qua phương thức bán đấu giá.

Theo Điều 327 BLDS 2015, thế chấp tài sản chấm dứt trong các trường hợp: (1) Nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp chấm dứt; (2) Việc thế chấp tài sản được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác; (3) Tài sản thế chấp đã được xử lý; (4) Theo thoả thuận của các bên. 

c) Bảo lãnh

Khoản 1 Điều 335 BLDS 2015 quy định: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.”

Chủ thể trong quan hệ bảo lãnh gồm có bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại, bên nhận bảo lãnh là ngân hàng thương mại, bên được bảo lãnh là các tổ chức, cá nhân có quan hệ vay vốn với ngân hàng thương mại còn bên bảo lãnh là bên thứ ba không thuộc các bên chủ thể trong quan hệ cho vay. Chẳng hạn, A bảo lãnh cho B vay tiền của ngân hàng.

Phạm vi bảo lãnh có thể là một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ. Nếu không có thỏa thuận khác thì người bảo lãnh phải bảo lãnh cả tiền lãi trên nợ gốc trong phạm vi bảo lãnh; đồng thời phải bảo lãnh cả khoản tiền phạt cũng như tiền bồi thường thiệt hại.

Người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nếu đến thời hạn mà bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của họ với ngân hàng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 335 BLDS 2015, thời điểm bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ được xác định theo hai trường hợp: (i) khi nghĩa vụ được bảo đảm đến thời hạn thực hiện (trường hợp các bên không có thỏa thuận khác) hoặc (ii) khi bên vay không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình (trường hợp các bên có thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên vay không có khả năng thực hiện nghĩa vụ).

Bên bảo lãnh phải dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thay cho bên vay nếu bên vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng. Khi bên bảo lãnh thực hiện xong những cam kết trước ngân hàng thì quan hệ nghĩa vụ chính và quan hệ bảo lãnh chấm dứt. Khi đó, bên bảo lãnh có quyền yêu cầu người được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi bảo lãnh; bên bảo lãnh được hưởng thù lao nếu có thỏa thuận giữa họ với người được bảo lãnh hoặc pháp luật có quy định.

Trường hợp nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ mà giữa bên bảo lãnh với ngân hàng không có thỏa thuận khác thì những người cùng bảo lãnh phải liên đới thực hiện việc bảo lãnh. Ngân hàng cố thể yêu cầu bất cứ người nào trong số những người cùng bảo lãnh phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ khi đến thời hạn thực hiện mà bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ. Khi một trong số những người bảo lãnh liên đới đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thay cho bên vay thì có quyền yêu cầu những người bảo lãnh còn lại thực hiện phần nghĩa vụ trong phạm vi họ bảo lãnh đối với mình.

Theo Điều 343 BLDS 2015, bảo lãnh chấm dứt trong các trường hợp: (1) Nghĩa vụ được bảo lãnh chấm dứt; (2) Việc bảo lãnh được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác; (3) Bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh; (4) Theo thoả thuận của các bên.

2. Quy định của pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm

Theo quy định tại Điều 298 BLDS 2015, biện pháp bảo đảm được đăng ký theo thỏa thuận hoặc theo quy định của luật. Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường hợp luật có quy định. Trường hợp được đăng ký thì biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký. Việc đăng ký biện pháp bảo đảm được thực hiện theo quy định của pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm. 

* Các trường hợp đăng ký biện pháp bảo đảm:

Các biện pháp bảo đảm bắt buộc phải đăng ký gồm: (i) thế chấp quyền sử dụng đất; (ii) thế chấp tài sản gắn liền với đất trong trường hợp tài sản đó đã được chứng nhận quyền sở hữu trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; (iii) cầm cố tàu bay, thế chấp tàu bay; (iv) thế chấp tàu biển.

Các biện pháp bảo đảm được đăng ký khi có yêu cầu gồm: (i) thế chấp tài sản là động sản khác; (ii) thế chấp tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai.

* Thời điểm có hiệu lực của đăng ký biện pháp bảo đảm:

Trường hợp đăng ký biện pháp bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tàu bay, tàu biển, thì thời điểm có hiệu lực của đăng ký biện pháp bảo đảm là thời điểm cơ quan đăng ký ghi nội dung đăng ký vào sổ đăng ký. Trường hợp đăng ký biện pháp bảo đảm bằng tài sản là động sản khác, thì thời điểm có hiệu lực của đăng ký biện pháp bảo đảm là thời điểm nội dung đăng ký được cập nhật vào cơ sở dữ liệu về biện pháp bảo đảm.

Thời hạn có hiệu lực của đăng ký biện pháp bảo đảm là kể từ thời điểm đăng ký theo quy định đến thời điểm xóa đăng ký biện pháp bảo đảm.

* Cơ quan có thẩm quyền đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm:

Theo quy định tại Điều 9 Nghị định 102/2017/NĐ-CP:

- Cục Hàng không Việt Nam trực thuộc Bộ Giao thông vận tải thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm bằng tàu bay.

- Cục Hàng hải Việt Nam hoặc Chi cục hàng hải, Cảng vụ hàng hải theo phân cấp của Cục Hàng hải Việt Nam trực thuộc Bộ Giao thông vận tải thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm bằng tàu biển.

- Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai và Văn phòng đăng ký đất đai trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất.

- Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm bằng động sản và các tài sản khác không thuộc thẩm quyền đăng ký của các cơ quan nêu trên.

* Các trường hợp xóa đăng ký biện pháp bảo đảm:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Nghị định 102/2017/NĐ-CP, các trường hợp xóa đăng ký biện pháp bảo đảm bảo bao gồm: (1) Chấm dứt nghĩa vụ được bảo đảm; (2) Hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp bảo đảm đã đăng ký bằng biện pháp bảo đảm khác; (3) Thay thế toàn bộ tài sản bảo đảm bằng tài sản khác; (4) Xử lý xong toàn bộ tài sản bảo đảm; (5) Tài sản bảo đảm bị tiêu hủy, bị tổn thất toàn bộ; tài sản gắn liền với đất là tài sản bảo đảm bị phá dỡ, bị tịch thu theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; (6) Có bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định của Trọng tài đã có hiệu lực pháp luật về việc hủy bỏ biện pháp bảo đảm, tuyên bố biện pháp bảo đảm vô hiệu; (7) Đơn phương chấm dứt biện pháp bảo đảm hoặc tuyên bố chấm dứt biện pháp bảo đảm trong các trường hợp khác theo quy định của pháp luật; (8) Cơ quan thi hành án dân sự hoặc Văn phòng thừa phát lại đã kê biên, xử lý xong tài sản bảo đảm; (9) Theo thỏa thuận của các bên.

3. Quy định của pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm

Theo quy định tại Điều 299 BLDS 2015, bên nhận bảo đảm chỉ được xử lý tài sản bảo đảm trong các trường hợp sau đây:

(1) Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.

(2) Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thoả thuận hoặc theo quy định của luật.

(3) Trường hợp khác do các bên thoả thuận hoặc luật có quy định.

Điều 303 BLDS 2015 quy định bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm có quyền thỏa thuận một trong các phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp: (1) Bán đấu giá tài sản; (2) Bên nhận bảo đảm tự bán tài sản; (3) Bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm; (4) Phương thức khác.

Trường hợp không có thỏa thuận về phương thức xử lý tài sản bảo đảm thì tài sản được bán đấu giá, trừ trường hợp luật có quy định khác.

4. Thực trạng cho vay có bảo đảm của các ngân hàng thương mại

Trong bối cảnh bình thường mới hiện nay, nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng đã và đang phát huy hiệu quả giúp doanh nghiệp ổn định sản xuất, mở rộng quy mô hoạt động, đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng nền kinh tế. 

Theo thông tin từ Ngân hàng Nhà nước, tín dụng ngân hàng tính đến ngày 7/10/2021 tăng 7,2% so với đầu năm, cao hơn so với cùng kỳ năm 2020. Thanh khoản của toàn hệ thống ngân hàng được đánh giá là vẫn đang ở trạng thái dồi dào, sẵn sàng hỗ trợ cho sự phục hồi của nền kinh tế. Một số ngân hàng đang xin nới hạn mức tín dụng để có thêm dư địa cho vay vào mùa cao điểm cuối năm. Tuy nhiên các khoản tín dụng được cấp đa phần đến với các doanh nghiệp có tiềm lực mạnh, còn những doanh nghiệp vừa và nhỏ thì gần như không thể tiếp cận được, vì không đủ tiêu chuẩn cần thiết về tài sản đảm bảo.

Nhiều doanh nghiệp cho biết, khó có thể tiếp cận được nguồn vốn vay chính thống và chỉ có thể tiếp cận được những khoản vay ngắn hạn, việc tiếp cận được khoản vay trung và dài hạn rất hạn chế. Các doanh nghiệp nhỏ hoặc siêu nhỏ thường phải chịu chi phí vay đắt đỏ hơn so các doanh nghiệp vừa và lớn và sẽ không thể vay vốn nếu không có tài sản thế chấp. Bên cạnh đó, thủ tục vay vốn còn phiền hà, phức tạp. Hơn nữa, tài sản đảm bảo của các doanh nghiệp còn đang bị định giá rẻ hơn trong bối cảnh dịch bệnh. Nếu như trước kia, doanh nghiệp vay vốn có thể được đối ứng 30-70 với ngân hàng, nghĩa là doanh nghiệp có tài sản đảm bảo đối ứng giá trị 30% khoản vay thì ngân hàng cho vay 70%, nhưng bây giờ khoản đối ứng đã lên 50-50, thậm chí xuống 70-30. 

Không chỉ vậy, các doanh nghiệp dịch vụ cũng gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay ngân hàng do đa phần hoạt động chủ yếu dưới hình thức thuê mặt bằng và các tài sản thuộc sở hữu không nằm trong danh mục được ngân hàng chấp nhận làm tài sản đảm bảo.

5. Một số bất cập trong quy định của pháp luật về các biện pháp bảo đảm 

Thứ nhất, về quyền thu giữ tài sản bảo đảm của ngân hàng. Quyền thu giữ tài sản của bên nhận bảo đảm chưa được ghi nhận tại BLDS 2015. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị quyết 42/2017/NQ-QH14, ngân hàng có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của bên bảo đảm, bên giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi đáp ứng đầy đủ 05 điều kiện, trong đó, có điều kiện hợp đồng tín dụng phải có điều khoản về việc bên bảo đảm đồng ý cho ngân hàng có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật. Như vậy, đối với những hợp đồng đã ký trước ngày Nghị quyết có hiệu lực mà không có thỏa thuận trên thì ngân hàng không thể tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm, trừ khi các bên đồng ý sửa đổi, bổ sung hợp đồng đã ký. Trên thực tế, việc sửa đổi, bổ sung hợp đồng là khó khả thi, đặc biệt tại giai đoạn xử lý tài sản bảo đảm, do khách hàng không hợp tác với ngân hàng trong việc ký văn bản bổ sung nội dung này vào hợp đồng.

Thứ hai, về thế chấp, cầm cố tài sản để bảo đảm nghĩa vụ của bên thứ ba. Quy định về thế chấp, cầm cố tài sản tại BLDS 2015 chưa rõ ràng, không có quy định cụ thể về việc thế chấp, cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cho bên thứ ba. Điều này dẫn đến việc có những cách hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau trên thực tế. Hiện nay, trong quá trình giải quyết tranh chấp, có một số tòa án có quan điểm việc dùng tài sản bảo đảm cho bên thứ ba vay vốn là biện pháp bảo lãnh và hợp đồng bảo đảm phải là hợp đồng ba bên (bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh, bên được bảo lãnh). Điều này đã gây khó khăn và những rủi ro pháp lý cho ngân hàng trong quá trình ký kết, thực hiện hợp đồng cầm cố, thế chấp tài sản, đối mặt với rủi ro hợp đồng thế chấp/cầm cố tài sản của bên thứ ba bị tuyên vô hiệu. 

Thứ ba, quy định thiếu thống nhất đối với biện pháp cầm cố và thế chấp, gây khó khăn trong công tác áp dụng biện pháp bảo đảm. Theo quy định của BLDS 2015 về biện pháp bảo đảm cầm cố và thế chấp, cầm cố và thế chấp chỉ khác nhau ở việc chuyển giao mang tính cơ học các tài sản bảo đảm mà không hề có sự phân biệt về loại tài sản. Vì thế, trong hoạt động cho vay việc cầm cố bất động sản là hoàn toàn có thể thực hiện. Tuy nhiên, các Luật chuyên ngành lại không quy định điều này. Luật Nhà 2014 không nhắc tới quyền cầm cố nhà ở mà chỉ nhắc đến quyền thế chấp nhà ở. Điều 167 Luật Đất đai 2013 cũng không hề nhắc tới cầm cố quyền sử dụng đất. Như vậy, quy định trong các văn bản Luật chuyên ngành lại hạn chế quyền cầm cố bất động sản của người sở hữu các quyền này.

III. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về các biện pháp bảo đảm trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại

Thứ nhất, cần sửa đổi các quy định về cầm cố tài sản. Điều 10 Luật Nhà ở 2014 cần được sửa đổi theo hướng mở rộng cả quyền cầm cố nhà ở cho chủ sở hữu, đồng thời quy định chi tiết về cầm cố nhà ở. Tương tự, tại Điều 167 Luật Đất đai 2013 cũng cần sửa đổi theo hướng cho phép các chủ thể có quyền sử dụng đất cầm cố quyền sử dụng đất. Ngoài ra, các loại tài sản đặc biệt như tàu bay, tàu biển... cần thống nhất trong việc áp dụng biện pháp cầm cố hay thế chấp. Các văn bản hướng dẫn BLDS 2015 cần có quy định cụ thể hướng dẫn các biện pháp  đảm bảo đối với quyền tài sản theo hướng cụ thế hóa quyền tài sản có thể được đảm bảo dưới hình thức cầm cố, thế chấp hay biện pháp khác khi áp dụng vào thực tiễn các cán bộ ngân hàng thực hiện thống nhất và có cơ sở.

Thứ hai, cần ban hành văn bản hướng dẫn BLDS 2015 theo hướng quy định rõ việc cho phép thế chấp, cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cho bên thứ ba để việc áp dụng pháp luật trên thực tế được thống nhất.

Thứ ba, cần pháp điển hóa Luật giao dịch bảo đảm. Đăng ký giao dịch bảo đảm có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, các quy phạm pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm được quy định tản mạn tại nhiều luật và văn bản dưới luật gây khó khăn cho công tác đăng ký giao dịch bảo đảm. Luật giao dịch bảo đảm sẽ thống nhất các quy định tản mạn tại các văn bản pháp luật khác nhau về một mối, giúp thuận tiện hơn trong việc áp dụng. Hơn nữa, việc ban hành Luật giao dịch bảo đảm thay vì các Nghị định hướng dẫn như hiện nay cũng phản ánh đúng tầm quan trọng của quan hệ bảo đảm trong xã hội, mối quan hệ đầy phức tạp, liên quan đến nhiều thành phần quan trọng cũng như các tài sản có giá trị lớn trong nền kinh tế.

KẾT LUẬN

Những phân tích trên đây đã khái quát được quy định của pháp luật hiện hành về các biện pháp bảo đảm trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại. Nhìn chung, quy định của pháp luật hiện hành đã tương đối đầy đủ, tạo hành lang pháp lý an toàn cho các giao dịch bảo đảm bên cạnh các hợp đồng tín dụng của ngân hàng. Các biện pháp bảo đảm phần nào giúp ngân hàng bảo toàn tiền vay khi cho khách hàng vay vốn, tránh tình trạng nợ xấu. Tuy nhiên, mặt khác, các biện pháp bảo đảm cũng làm hạn chế khả năng tiếp cận tín dụng của khách hàng, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có tài sản bảo đảm. Tiểu luận cũng đã nêu ra một số điểm hạn chế của quy định pháp luật hiện hành về các biện pháp bảo đảm và đề xuất một số biện pháp để hoàn thiện pháp luật về vấn đề này hơn nữa.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ luật Dân sự 2015

2. Luật các tổ chức tín dụng 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

3. Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng

4. Nghị định 102/2017/NĐ-CP về đăng ký biện pháp bảo đảm

5. Nguyễn Thị Lương (2014), Thực tiễn thực hiện các biện pháp bảo đảm trong hoạt động của các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội

6. TS. Nguyễn Thị Thủy (2016), Bàn về việc áp dụng các biện pháp thế chấp, cầm cố tài sản của bên thứ ba và biện pháp bảo lãnh trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam, số 08(102)/2016, tr. 63 – 70 

7. Quỳnh Huệ (2021), Một số vướng mắc, bất cập về biện pháp bảo đảm trong hoạt động tín dụng, ngân hàng, Website Viện kiểm sát Nhân dân tỉnh Thái Bình, https://vksndthaibinh.gov.vn/Article/3986/Mot-so-vuong-mac-bat-cap-ve-bien-phap-bao-dam-trong-hoat-dong-tin-dung-ngan-hang.html (truy cập ngày 29/12/2021)

8. Tạ Quang Đôn, Nguyễn Thị Lương Trà (2021), Thực trạng hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm và những tác động tới quá trình xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, Tạp chí Ngân hàng, http://tapchinganhang.gov.vn/thuc-trang-he-thong-phap-luat-ve-giao-dich-bao-dam-va-nhung-tac-dong-toi-qua-trinh-xu-ly-no-xau-cua-.htm (truy cập ngày 29/12/2021)

9. Trang Hà (2017), Tài sản bảo đảm nhưng chưa chắc đã là “đảm bảo”, Website ngân hàng Agribank, https://www.agribank.com.vn/vn/ve-agribank/tin-tuc-su-kien/tin-ve-agribank/goc-nhin-phap-luat1/tai-san-bao-dam-nhung-chua-chac-da-la-dam-bao (truy cập ngày 29/12/2021)

10. ThS. Trần Thế Hệ (2017), Pháp luật về biện pháp bảo đảm trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại, Tạp chí Tài chính Online, https://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi/trao-doi-binh-luan/phap-luat-ve-bien-phap-bao-dam-trong-hoat-dong-cho-vay-cua-ngan-hang-thuong-mai-125761.html (truy cập ngày 29/12/2021)

11. Trần Vũ Hải chủ biên (2010), Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội

12. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội

13. Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam tập 2, NXB Công an nhân dân, Hà Nội

Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU

Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

You Might Also Like

0 nhận xét