Tìm hiểu về trách nhiệm cung cấp thông tin của các bên trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm. Phân tích một tình huống thực tế về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm liên quan đến trách nhiệm cung cấp thông tin của người tham gia bảo hiểm

tháng 10 03, 2023


 

LỜI NÓI ĐẦU

Trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm, một trong những yêu cầu quan trọng đặt ra đó là tính trung thực trong việc cung cấp thông tin của các bên. Bởi lẽ, yêu cầu này xuất phát từ nguyên tắc trung thực tuyệt đối, nhằm đảm bảo việc ký kết hợp đồng được dựa trên ý chí của cả hai bên. Tuy nhiên, trên thực tế xảy ra rất nhiều trường hợp các bên xảy ra tranh chấp về nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, sau đây nhóm chúng em xin trình bày về đề bài số 01: “Tìm hiểu về trách nhiệm cung cấp thông tin của các bên trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm. Phân tích một tình huống thực tế về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm liên quan đến trách nhiệm cung cấp thông tin của người tham gia bảo hiểm”.

Do còn nhiều hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên không thể tránh khỏi những khiếm khuyết, kính mong sẽ nhận được sự nhận xét và đóng góp ý kiến từ phía các thầy cô để bài làm của chúng em được hoàn thiện hơn.

Chúng em xin chân thành cảm ơn!

NỘI DUNG 

I. Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm cung cấp thông tin của các bên trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm

1. Khái quát chung về hợp đồng bảo hiểm

Thứ nhất, về khái niệm

Hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về bảo hiểm, vì khái niệm bảo hiểm được xây dựng dựa trên từng góc độ nghiên cứu khác nhau như xã hội, pháp lý, kinh tế, kỹ thuật, nghiệp vụ,… Tuy nhiên có thể hiểu một cách khái quát nhất thì Bảo hiểm là một hoạt động qua đó một cá nhân có quyền được hưởng trợ cấp bảo hiểm nhờ vào một khoản đóng góp cho mình hoặc cho người thứ 3 trong trường hợp xảy ra rủi ro. Khoản trợ cấp này do một tổ chức trả, tổ chức này có trách nhiệm đối với toàn bộ các rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê.

Đối với hợp đồng bảo hiểm, Khoản 1 Điều 12 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định như sau: “Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự hiện bảo hiểm.”

Thứ hai, về đặc điểm:

– Chủ thể tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm là doanh nghiệp bảo hiểm với bên mua bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể đồng thời là người được bảo hiểm và người thụ hưởng bảo hiểm.

– Tính đền bù trong hợp đồng bảo hiểm không xác định được ở thời điểm giao kết hợp đồng (Trừ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ)

Khi hợp đồng bảo hiểm được giao kết và có hiệu lực, các quan hệ bảo hiểm sẽ được hình thành. Tuy nhiên, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ thực hiện nghĩa vụ trả tiền hoặc bồi thường cho bên được bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Nghĩa là rủi ro được bảo hiểm chỉ là giả thiết xảy ra trong tương lai nhưng không biết chính xác diễn biến sự kiện sẽ xảy ra ở đâu, bao giờ và cụ thể rủi ro là gì, mức độ tổn thất bao nhiêu…

– Hợp đồng bảo hiểm là loại hợp đồng có điều khoản mẫu (hợp đồng gia nhập), là hợp đồng song vụ có điều kiện và bao giờ cũng thể hiện dưới hình thức văn bản.

Các điều khoản có trong hợp đồng bảo hiểm được cơ quan pháp luật hoặc doanh nghiệp bảo hiểm quy định theo mẫu cố định. Bên mua bảo hiểm không có quyền đàm phán, sửa đổi các điều khoản hoặc có thể từ chối kí kết vào hợp đồng bảo hiểm. Tính song vụ được thể hiện ở chỗ các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm đều có nghĩa vụ đối với nhau. Việc thực hiện nghĩa vụ này là trách nhiệm của các bên tham gia, nghĩa vụ của bên này chính là quyền lợi của bên kia và ngược lại.

– Hợp đồng bảo hiểm là loại hợp đồng có chứa đựng tính chất may rủi. Mối quan hệ giữa các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm mang tính chuyển dịch rủi ro từ người mua bảo hiểm sang bên nhận bảo hiểm. Nhờ các mối quan hệ bảo hiểm, bên mua bảo hiểm được đảm bảo về sự an toàn, kinh tế trong các trường hợp xuất hiện rủi ro về sức khỏe, tính mạng, tài sản.

Nếu không tồn tại rủi ro thì không có việc giao kết cũng như tồn tại hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm. Do vậy mà yếu tố trung thực của các bên tham gia bảo hiểm là yếu tố quan trọng góp phần bảo đảm quyền lợi cho cả người tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm.

2. Cơ sở trách nhiệm cung cấp thông tin của các bên trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm

Mang bản chất của một hợp đồng dân sự, hợp đồng bảo hiểm cũng đòi hỏi phải được giao kết dựa trên cơ sở của quyền tự do ý chí. Là một nguyên tắc cơ bản của quan hệ pháp luật dân sự, quyền tự do ý chí đã được ghi nhận tại Điều 1 Bộ luật dân sự năm 2015: “Bộ luật này quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự)”. Trong hợp đồng bảo hiểm, quyền tự do ý chí được đảm bảo bằng những yêu cầu cao hơn về nghĩa vụ của các bên giao kết hợp đồng so với các quan hệ dân sự thông thường. Một trong số những yếu tố đảm bảo là nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm. Chỉ khi doanh nghiệp có thể nắm bắt được những thông tin có liên quan mới đủ cơ sở để xét đến ý chí của doanh nghiệp trong việc giao kết hợp đồng. Mặc dù bên bảo hiểm có thể đối phó với thế mạnh của bên mua bảo hiểm bằng cách tự mình tiến hành điều tra, tìm hiểu thông tin nhưng vì nhiều lý do khác nhau (như quá trình giao kết hợp đồng được thực hiện trong khoảng thời gian rất ngắn), việc điều tra không phải lúc nào cũng có thể toàn diện và đạt kết quả như mong muốn. Hơn nữa, công việc điều tra, xác minh cho dù được thực hiện theo cách thức nào cũng không thể tránh khỏi phí tổn và thời gian. Do vậy, có thể nói, dù muốn hay không, bên bảo hiểm vẫn ở thế yếu khi phải chịu sự lệ thuộc vào sự chia sẻ thông tin từ phía người mua bảo hiểm. Nói cách khác, nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm đảm bảo cho doanh nghiệp bảo hiểm tính toán được mức độ của rủi ro – vốn là cơ sở của hợp đồng bảo hiểm trước khi quyết định có hay không ký kết hợp đồng bảo hiểm với khách hàng.

Bên cạnh mục đích bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm, cơ sở của nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm còn xuất phát từ những nguyên tắc đặc trưng của hợp đồng bảo hiểm, đó là nguyên tắc trung thực tuyệt đối; nguyên tắc chỉ bảo hiểm cho rủi ro, không bảo hiểm cho sự chắc chắn. Theo nguyên tắc trung thực tuyệt đối, bên bảo hiểm và bên được bảo hiểm phải tuyệt đối trung thực và tin tưởng lẫn nhau. Các bên phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của thông tin cung cấp cho bên kia.

Nguyên tắc chỉ bảo hiểm cho rủi ro, không bảo hiểm cho sự chắc chắn bắt nguồn từ thực tế yếu tố rủi ro có thể được đánh giá một cách gián tiếp thông qua thông tin được cung cấp từ cả hai bên trong hợp đồng. Sự bất cân xứng về thông tin của các bên trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm là rào cản cần phải vượt qua khi các bên dành cho nhau sự thiện chí trên cơ sở cung cấp đầy đủ thông tin một cách trung thực. Nếu cần trung thực tuyệt đối không được đảm bảo, hợp đồng có thể không cần phải được thực hiện bởi một bên còn lại của hợp đồng.

Từ những cơ sở đó, nghĩa vụ cung cấp thông tin cho dù được thực hiện theo cách thức như thế nào cũng cần phải đảm bảo hai yêu cầu cơ bản là: trung thực và đầy đủ. Trung thực hàm ý việc cung cấp thông tin phải chính xác, một cách cẩn trọng, tích cực, đầy đủ, đòi hỏi dung lượng thông tin phải giúp cho doanh nghiệp bảo hiểm trả lời được những câu hỏi cơ bản nhất khi trở thành một bên giao kết hợp đồng.

II. Quy định của pháp luật về trách nhiệm cung cấp thông tin của người tham gia bảo hiểm trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng.

Như đã trình bày ở phần lý luận, hợp đồng bảo hiểm được ký kết giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, do đó trách nhiệm cung cấp thông tin của các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm được phân tích theo hướng như sau:

1. Trách nhiệm cung cấp thông tin của doanh nghiệp bảo hiểm

Đây là trách nhiệm quan trọng của doanh nghiệp bảo hiểm, thể hiện tính chính xác, trung thực của doanh nghiệp bảo hiểm trong việc cung cấp thông tin đầy đủ về hợp đồng bảo hiểm cho khách hàng.

Theo khoản 1 Điều 19 Luật kinh doanh bảo hiểm quy định: “Khi giao kết hợp đồng, doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan tới hợp đồng bảo hiểm, giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm.”

Khi tư vấn, các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ giúp bên mua bảo hiểm lựa chọn loại bảo hiểm phù hợp, đồng thời khi thực hiện giao kết hợp đồng phải giải thích các điều kiện điều khoản cho họ. Bên doanh nghiệp bảo hiểm phải chịu trách nhiệm về tính chính xác về những thông tin mà mình đã đưa ra.

Như vậy, pháp luật đã quy định rất rõ, khi giao kết bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra lời cam kết về điều kiện và phương thức bồi thường nên mọi thông tin đưa ra để cam kết phải là trung thực, rõ ràng. Đó là cơ sở để người tham gia bảo hiểm lựa chọn trước khi đưa ra quyết định tham gia hợp đồng bảo hiểm. Bên cạnh đó, khi bên mua cung cấp các thông tin liên quan tới việc bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm có trách nghiệm giữ bí mật các thông tin đó

2. Trách nhiệm cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm

Bên mua bảo hiểm phải cung cấp thông tin trung thực và đầy đủ để doanh nghiệp bảo hiểm đánh giá rủi ro, chấp nhận rủi ro, chấp nhận bảo hiểm, tính phí bảo hiểm cho phù hợp với những thông tin nhận được. Các thông tin do bên mua bảo hiểm cung cấp sẽ được doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm giữ bí mật.

Khoản 1 Điều 19 Luật kinh doanh bảo hiểm quy định: “…Bên mua bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp thông tin liên quan tới đối tượng bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm.”

Khoản 2 Điều 18 Luật Kinh doanh bảo hiểm cũng quy định: Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm.

Ngoài ra trách nhiệm cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm còn được quy định tại điểm c, khoản 2, điều 18 Luật Kinh doanh bảo hiểm: “Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ thông báo những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình thực hiện Hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm”.

Việc tham gia bảo hiểm thực hiện đúng nghĩa vụ này là cơ sở cho doanh nghiệp bảo hiểm đánh giá rủi ro, chấp nhận bảo hiểm hay không và thuận theo thỏa thuận của cụ thể về một số hợp đồng bảo hiểm. Khi xảy ra những thay đổi đến việc thực hiện hợp đồng đặc biệt là những yếu tố liên quan tới thông tin trọng yếu đã cung cấp khi giao kết hợp đồng đến cả những thay đổi làm gia tăng rủi ro thì bên mua bảo hiểm phải thông báo ngay cho doanh nghiệp bảo hiểm.

3. Hậu quả pháp lý của việc không cung cấp hoặc cố ý cung cấp thông tin sai sự thật của người tham gia bảo hiểm

Việc cố ý cung cấp thông tin sai sự thật của người mua bảo hiểm nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường thực chất cũng là một hành vi lừa dối. Hợp đồng bảo hiểm là một loại hợp đồng chuyên biệt nên hậu quả pháp lý của hành vi này sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật Kinh doanh bảo hiểm.

Hậu quả nếu một bên vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin được quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 19 Luật Kinh doanh bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có một trong những hành vi sau đây: cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường; không thực hiện các nghĩa vụ trong việc cung cấp thông tin cho doanh nghiệp bảo hiểm theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 18 của Luật Kinh doanh bảo hiểm. Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm; doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho bên mua bảo hiểm do việc cung cấp thông tin sai sự thật.

Theo đó Luật Kinh doanh bảo hiểm áp dụng chế tài đơn phương đình chỉ hợp đồng nếu một bên “cố ý cung cấp thông tin sai sự thật cho bên còn lại”. Trong khi đó, điểm d khoản 1 Điều 22 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định hành vi “lừa dối khi giao kết hợp đồng bảo hiểm” của một bên được coi là căn cứ để tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Tuy nhiên, pháp luật không nói rõ, lúc nào hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sẽ dẫn đến hợp đồng vô hiệu và lúc nào thì đơn phương chấm dứt hợp đồng. Vì vậy, vấn đề đặt ra là đối với hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật để bảo vệ cho bên bị lừa dối thì không thể áp dụng hợp đồng vô hiệu theo Điều 22 Luật Kinh doanh bảo hiểm. Bởi nếu áp dụng điều luật này, chúng ta sẽ “tiếp tay” cho người mua bảo hiểm “thoải mái” cung cấp thông tin sai sự thật khi giao kết hợp đồng để được nhận tiền bảo hiểm hoặc bồi thường thiệt hại vì trong trường hợp xấu nhất hợp đồng đó sẽ bị tuyên là vô hiệu thì người mua bảo hiểm cũng chẳng mất gì. Và như vậy, mục đích bảo vệ người bị lừa dối không đạt được, các nguyên tắc giao kết và thực hiện hợp đồng (trung thực, thiện chí, bình đẳng...) không được đảm bảo, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ không thể hoạt động bình thường. Thực tế hiện chưa có văn bản hướng dẫn việc áp dụng các điều luật trên khiến cho các doanh nghiệp bảo hiểm lúng túng trong cách giải quyết, kết luận đúng đắn của các bản án phụ thuộc phần lớn vào quan điểm của tòa án.

III. Tình huống về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm liên quan đến trách nhiệm cung cấp thông tin của người tham gia bảo hiểm

1. Tình huống về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm liên quan đến trách nhiệm cung cấp thông tin của người tham gia bảo hiểm

Sau đây, để tìm hiểu rõ hơn trách nhiệm cung cấp thông tin của người tham gia bảo hiểm, chúng em xin đưa ra một tình huống tranh chấp cụ thể về hợp đồng bảo hiểm là Bản án dân sự phúc thẩm số 313/2016/DS-PT ngày 16/3/2016 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án tranh chấp hợp đồng bảo hiểm giữa nguyên đơn là ông Đặng Văn L với bị đơn là Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ C.

Nội dung tranh chấp như sau:

Ngày 14/10/2008, bà H ký Hợp đồng bảo hiểm Thịnh Trí Thành Tài Bảo Gia với công ty Bảo hiểm nhân thọ C. Ngày 25/03/2009, bà H ký tiếp Hợp đồng Tử kỳ với công ty C. Ngày 09/01/2010, bà H qua đời. Chồng bà là ông L và những người thân trong gia đình đã yêu cầu công ty bảo hiểm chi trả khoản tiền theo quy định trong 02 hợp đồng bảo hiểm đã ký.

Công ty bảo hiểm cho rằng trong quá trình đăng ký vào giao kết hợp đồng bảo hiểm, bà H đã điền thông tin sức khỏe cá nhân không đúng với bệnh tình trên thực tế, có dấu hiệu gian dối nên đã từ chối chi trả khoản tiền bảo hiểm cho ông L.

Ngày 10/11/2010, ông L khởi kiện công ty bảo hiểm C ra TAND Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu công ty bảo hiểm trả tiền bảo hiểm theo hợp đồng và tiền lãi chậm trả tương ứng. Bản án sơ thẩm số 1211/2015/TLST-DS ngày 26/8/2015 của TAND Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn. Sau đó, công ty C tiếp tục kháng cáo. Bản án phúc thẩm số 313/2016/DS-PT ngày 16/3/2016  của TAND Thành phố Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bản án phúc thẩm đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xây dựng thành án lệ 22/2018/AL.

Nhận định của tòa án như sau:

Tại câu hỏi số 54 Đơn yêu cầu bảo hiểm ngày 25/3/2009, câu hỏi: “loét đường tiêu hóa, xuất huyết tiêu hóa, viêm tụy, viêm kiết tràng, khó tiêu thường xuyên, khó nuốt, hoặc rối loạn tại dạ dày, ruột gan hoặc túi mật” bà H đánh dấu vào ô không. Tại biên bản hội chẩn số 42/BV-99 của Bệnh viện B ngày 03/9/2009 bà H khai có tiền sử đau dạ dày 2 năm. Căn cứ theo Biên bản hội chẩn thì bà H có bệnh đau dạ dày từ ngày 03/9/2007 là trước thời điểm bà H ký Hợp đồng bảo hiểm. Phía Công ty C cho rằng cụm từ “rối loạn tại dạ dày” bao gồm tất cả các bệnh liên quan đến dạ dày trong đó có bệnh đau dạ dày. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, phía bị đơn không đưa ra được bất kỳ chứng cứ nào để chứng minh, không đưa ra được một giải thích khoa học nào xác định đau dạ dày chính là rối loạn tại dạ dày.

Khoản 2 Điều 407 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Trong trường hợp hợp đồng dân sự theo mẫu có điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó”.

Điều 21 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định: “Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm có điều khoản không rõ ràng thì điều khoản đó được giải thích theo hướng có lợi cho người mua bảo hiểm”.

Theo đó, trong trường hợp các bên có sự giải thích khác nhau không rõ ràng khó hiểu thì Điều khoản này phải được giải thích theo hướng có lợi cho bà H. Như vậy, không đủ cơ sở xác định đau dạ dày được bao gồm trong rối loạn tại dạ dày như Công ty C trình bày.

Xét thấy, tại đơn yêu cầu bảo hiểm không có câu hỏi về bệnh đau dạ dày. Như vậy, phía Công ty C cho rằng bà H bị bệnh đau dạ dày mà không khai báo là cố tình khai báo không trung thực và vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin là không có căn cứ.

Tại câu hỏi 61 của Đơn yêu cầu bảo hiểm ngày 25/3/2009: “Trong vòng 5 năm trở lại đây, ông, bà đã có làm xét nghiệm chẩn đoán như X-quang, siêu âm, điện tim đồ, thử máu, sinh thiết? Hoặc ốm đau, bệnh tật khám y khoa, điều trị tại bệnh viện nhưng chưa được nêu ở phần trên không?” bà H đánh dấu vào ô không. Tại phiên tòa phúc thẩm, phía Công ty C cung cấp Phiếu xét nghiệm hóa sinh máu đề ngày 22/9/2008 mang tên người bệnh là Trương Thị H. Phía Công ty C xác định đây là tài liệu do Công ty C thu thập trong hồ sơ kiểm tra sức khỏe định kỳ cho nhân viên của Trường Mầm non C nơi trước đây bà H công tác. Công ty C cho rằng vào ngày 22/9/2008, bà H có làm xét nghiệm máu nhưng không khai báo tại câu hỏi số 61, đơn yêu cầu bảo hiểm là bà H cố tình khai báo không trung thực.

Xét thấy, việc kiểm tra sức khỏe định kỳ được các cơ quan, tổ chức thực hiện một cách thường xuyên và định kỳ. Khi tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ, người được khám không biết và không buộc phải biết tổ chức khám chữa bệnh đã tiến hành các biện pháp, phương pháp gì. Hơn nữa, khi kiểm tra sức khỏe định kỳ bà H không phát hiện dấu hiệu của một căn bệnh nào dẫn đến việc Công ty C từ chối ký kết hợp đồng với bà H. Do đó, không đủ cơ sở xác định bà H cảm thấy cơ thể bất thường mới tiến hành đi xét nghiệm máu sau đó mua bảo hiểm của Công ty C.

Như vậy, chưa đủ cơ sở xác định bà H có gian dối khi ký hợp đồng bảo hiểm, không có cơ sở xác định việc bà H đánh dấu vào ô không của mục 54 và 61 tại Đơn yêu cầu bảo hiểm làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc Công ty C có xem xét để ký hợp đồng bảo hiểm với bà H hay không.

2. Phân tích tình huống

Điểm b khoản 2 Điều 18 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định:

“2. Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ:

b) Kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm.”

Như vậy, nghĩa vụ cung cấp thông tin của người mua bảo hiểm lệ thuộc vào yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm.

Trong tình huống này, trong câu hỏi mà công ty C đưa ra liên quan đến nội dung người mua bảo hiểm có bị rối loạn tại dạ dày hay không và bà H trả lời là không. Tuy nhiên, thực tế bà H lại có tiền sử đau dạ dày. Câu hỏi đặt ra là tiền sử đau dạ dày và rối loạn tại dạ dày có là một hay không. Công ty C cho rằng cụm từ “rối loạn tại dạ dày” bao gồm tất cả các bệnh liên quan đến dạ dày trong đó có đau dạ dày, do đó công ty C cho rằng hợp đồng bảo hiểm không có hiệu lực và từ chối trả tiền bảo hiểm. Tuy nhiên, phía người mua bảo hiểm cho rằng đau dạ dày và rối loạn tại dạ dày là hai khái niệm khác nhau, không có bất kỳ tài liệu, chứng cứ nào chứng tỏ bệnh đau dạ dày chính là rối loạn tại dạ dày. Như vậy, ở đây các bên hiểu không thống nhất với nhau về việc đau dạ dày có nằm trong nội hàm của rối loạn tại dạ dày hay không. Điều này là do khái niệm rối loạn tại dạ dày mà công ty C đưa ra không rõ ràng.

Điều 21 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định: “Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm có điều khoản không rõ ràng thì điều khoản đó được giải thích theo hướng có lợi cho bên mua bảo hiểm.”

Trong trường hợp này, các câu hỏi về tình trạng sức khỏe và các câu trả lời phải được coi là một bộ phận của hợp đồng bảo hiểm, bởi lẽ việc trả lời các câu hỏi đó là căn cứ để xác định hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm và trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong việc thanh toán tiền bảo hiểm. Câu hỏi về “rối loạn tại dạ dày” mà công ty C đưa ra là không rõ ràng, do đó, câu hỏi này sẽ được giải thích theo hướng có lợi cho bên mua bảo hiểm, tức là, “rối loạn tại dạ dày” không bao gồm “đau dạ dày”. Như vậy, bên mua bảo hiểm trả lời “không” đối với câu hỏi này không được coi là bên mua bảo hiểm đã kê khai, trả lời không trung thực.

Theo hướng giải quyết của án lệ trong trường hợp này, ta có thể kết luận như sau: Trường hợp khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm trả lời các câu hỏi về tình trạng sức khỏe mà câu hỏi không rõ ràng thì việc giải thích các câu hỏi đó để xác định câu trả lời của bên mua bảo hiểm có trung thực hay không phải theo hướng có lợi cho bên mua bảo hiểm.

Một tình tiết khác trong vụ tranh chấp này như sau, trong đơn yêu cầu bảo hiểm có nội dung câu hỏi: “Trong vòng 5 năm trở lại đây, ông, bà đã có làm xét nghiệm chẩn đoán như X-quang, siêu âm, điện tim đồ, thử máu, sinh thiết? Hoặc ốm đau, bệnh tật khám y khoa, điều trị tại bệnh viện nhưng chưa được nêu ở phần trên không?” và bà H đánh dấu vào ô không. Tuy nhiên trên thực tế, bà H có phiếu xét nghiệm hóa sinh máu được tiến hành trong khuôn khổ khám sức khỏe kiểm tra định kỳ tại nơi làm việc. Từ đó, công ty C cho rằng, bà H có xét nghiệm máu nhưng không khai báo tại câu hỏi này là cố tình khai bảo không trung thực. Công ty C cho rằng hợp đồng bảo hiểm không có hiệu lực và từ chối thanh toán tiền bảo hiểm.

Điểm a khoản 2 Điều 19 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định:

“2. Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có một trong những hành vi sau đây:

a) Cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường.”

Theo quy định này, công ty C chỉ được đơn phương đình chủ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng trong trường hợp đáp ứng cả 02 điều kiện là: (i) bà H cố ý cung cấp thông tin sai sự thật và (ii) nhằm mục đích giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường.

Trong trường hợp này, tòa án nhận định rằng bà H không biết hoặc không buộc phải biết tổ chức khám chữa bệnh đã tiến hành các biện pháp, phương pháp gì, từ đó xác định rằng không phải bà H cung cấp thông tin không trung thực.

Ngoài ra, tòa án còn dựa vào một căn cứ khác để xác định trách nhiệm của công ty C. Đó là các kết quả xét nghiệm mà bên mua bảo hiểm không cung cấp thông tin là không liên quan đến các bệnh lý mà công ty C dựa vào đó để có thể quyết định không giao kết hợp đồng bảo hiểm. Như vậy, dù bà H không thực hiện đúng yêu cầu cung cấp thông tin do công ty C đặt ra thì việc này vẫn chưa đủ để công ty C từ chối trả tiền bảo hiểm vì theo tòa án việc này không làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc công ty C có xem xét để ký hợp đồng bảo hiểm với bà H hay không.

Theo hướng giải quyết của án lệ trong trường hợp này, ta có thể kết luận như sau: Trường hợp bên mua bảo hiểm trả lời chưa tiến hành các xét nghiệm chẩn đoán… trong khoảng thời gian được nêu tại câu hỏi nhưng trên thực tế bên mua bảo hiểm đã khám sức khỏe định kỳ mà không phát hiện dấu hiệu của căn bệnh nào để từ đó mua bảo hiểm và là căn cứ để doanh nghiệp bảo hiểm từ chối ký hợp đồng bảo hiểm thì không thể coi việc không cung cấp thông tin đó là cố tình khai báo không trung thực.

KẾT LUẬN

Như vậy, thông qua những phân tích về trách nhiệm cung cấp thông tin của các bên trong hợp đồng cũng như phân tích một tình huống trên thực tế, có thể khẳng định rằng, trách nhiệm cung cấp thông tin của người tham gia bảo hiểm trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm là điều kiện rất quan trọng để xác định tính hiệu lực của hợp đồng. Một khi các bên không tuân thủ nguyên tắc này sẽ phải chịu hậu quả pháp lý nhất định. Luật Kinh doanh bảo hiểm đã có những quy định về điều này nhằm hạn chế những hành vi trục lợi bảo hiểm. Tuy nhiên, qua quá trình áp dụng trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập đòi hỏi hệ thống pháp luật cùng các văn bản hướng dẫn phải điều chỉnh, giúp các bên tham gia bảo hiểm nắm rõ và vận dụng một cách có hiệu quả để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 

1. Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi bổ sung năm 2010.

2. Trần Vũ Hải, Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ - Những vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006.

3. Phạm Văn Tuyết, Bảo hiểm và kinh doanh bảo hiểm theo pháp luật Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2007.

4. Trách nhiệm cung cấp thông tin của các bên trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm < https://thegioiluat.vn/bai-viet-hoc-thuat/Trach-nhiem-cung-cap-thong-tin-cua-cac-ben-trong-quan-he-hop-dong-bao-hiem-9462/ >

5. PGS.TS. Nguyễn Thị Thủy, Nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 05 (405), tháng 3/2020.

< http://www.lapphap.vn/Pages/TinTuc/210528/Nghia-vu-cung-cap-thong-tin-cua-ben-mua-bao-hiem-trong-hop-dong-bao-hiem-nhan-tho.html >

6. Án lệ 22/2018/AL.

7. Bản án dân sự phúc thẩm số 313/2016/DS-PT ngày 16/3/2016 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh.

8. LS. TS. Lưu Tiến Dũng, Án Lệ Việt Nam – Phân Tích và Luận Giải, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2021.

Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU

Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

You Might Also Like

0 nhận xét