BÀI TẬP LỚN MÔN LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT HLU

tháng 9 13, 2023

Đề bài: 

Thông qua bài viết: “Thế giới đang biến đổi và tư duy mới về ‘bàn tay nhà nước’” của tác giả Nguyễn Minh Phong (tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2,3 (139, 140) tháng 1/2009), em hãy:

1. Tóm tắt nội dung bài viết trong khoảng 1200 từ (không quá 3 trang A4).

2.  Chỉ ra sự giống nhau và khác nhau trong quan điểm về một số chức năng của nhà nước giữa tác giả bài viết trên với tác giả Nguyễn Đình An trong bài viết “Chức năng của nhà nước trước tác động của xu thế toàn cầu hóa” (Tạp chí Triết học (10), 2013).

3. Cho biết quan điểm của cá nhân em về việc thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước Việt Nam hiện nay.



Bài làm

1. Tóm tắt nội dung bài viết: “Thế giới đang biến đổi và tư duy mới về ‘bàn tay Nhà nước’” – Nguyễn Minh Phong

Những năm 90 của thế kỉ trước, thế giới chứng kiến sự sụp đổ bất ngờ và nhanh chóng của hệ thống kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ theo mô hình Xô Viết. Cuối năm 2008, cơn bão khủng hoảng tài chính phố Wall đã làm lung lay tận gốc rễ nền kinh tế Mỹ vốn đề cao khả năng tự điều chỉnh của các thể chế thị trường. Hai sự kiện lịch sử có tầm vóc toàn cầu ấy gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh tất cả các quốc gia trên thế giới, đòi hỏi một tư duy mới về “bàn tay quản lý kinh tế của Nhà nước.”

Trong những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, thế giới đang chuyển biến mạnh mẽ. Các quốc gia ngày càng tăng cường đối thoại, vừa cạnh tranh, vừa hợp tác, phụ thuộc lẫn nhau. Hệ thống sản xuất, thương mại, tài chính quốc gia ngày càng mở rộng và quốc tế hóa. Xu hướng hội tụ hóa và “đồng nhất hóa” giữa các khối kinh tế, các quốc gia ngày càng đậm nét. Quá trình tái cấu trúc, đa dạng hóa, đa cực hóa, đa phương hóa về trung tâm, mô hình, động lực và mục tiêu phát triển ngày càng được tăng cường. Các sản phẩm đang và sẽ đa dạng, gọn nhẹ, nhiều chức năng hơn và rẻ hơn; do đó, phổ cập hơn và có tính cá nhân hơn. Các công ty một mặt được tổ chức theo quy mô nhỏ, giúp giảm bớt nạn quan liêu và chuyên môn hóa cao hơn; mặt khác lại có xu hướng hợp nhất để trở nên lớn mạnh hơn, toàn cầu hơn. Các ngành khai thác, chế biến nguyên liệu truyền thống ngày càng thu hẹp, các ngành sản xuất mới sẽ xuất hiện và các ngành dịch vụ sẽ chiếm tỷ trọng lớn nhất. Sự phát triển của internet và giao thông vận tải toàn cầu khiến thế giới trở nên “phẳng” hơn. Con người lao động thời đại mới có tri thức toàn diện hơn, năng động hơn, di chuyển chỗ làm việc thường xuyên và trên phạm vi ngày càng rộng hơn. Vai trò can thiệp kinh tế đang chuyển dần từ “nhà nước quốc gia” sang “nhà nước quốc tế” (G7, IMF, WB…). Chu kỳ kinh tế tư bản chủ nghĩa không mất đi và có sự rút ngắn khoảng cách giữa các chu kỳ; khủng hoảng chu kỳ kinh tế và khủng hoảng cơ cấu ngày càng có sự gắn kết sâu đậm, trở nên dày đặc, phổ biến hơn và mang tính quốc tế cao. Khi xảy ra khủng hoảng, tư bản quốc tế sẽ tự do rút chạy, dồn đến ẩn nấp và hoạt động tại những nơi an toàn hơn, thị trường thuận lợi hơn, nhưng điều này lại làm tăng hậu quả của khủng hoảng tại nơi xảy ra do sự ra đi đột ngột, tâm lý và tự phát của tư bản. Chính sự phát triển vô hạn độ khả năng tích tụ, dồn nén, vận chuyển tài chính toàn cầu cho các hoạt động đầu tư quốc tế trong khi thiếu cơ chế giám sát cần thiết đã, đang và sẽ ngày càng trở thành đầu mối của những chấn động kinh tế trong xã hội hiện đại. Ngày nay, quốc tế hóa, toàn cầu hóa và tri thức hóa nền kinh tế toàn cầu là hướng phát triển và lối thoát tự nhiên hữu hiệu và có nhiều triển vọng nhất cho các cuộc khủng hoảng. Việc cung cấp, giám sát thông tin đầy đủ, hệ thống, cập nhật đóng vai trò vô cùng quan trọng, không chỉ cho phép cảnh báo sớm các nguy cơ, định hướng lối thoát cho các doanh nghiệp và chính phủ mà còn có tác dụng ngăn chặn những tác hại của hành vi mù quáng hoặc tính dễ lây lan tâm lý cảm tính đám đông. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, biên giới và chủ quyền quốc gia theo nghĩa truyền thống ngày càng mờ nhạt hơn. Các chế định khu vực và quốc tế ngày càng ảnh hưởng và chi phối chính sách, định hướng phát triển của mỗi nước. Các nhân tố văn hóa – xã hội đặc trưng quốc gia ngày càng tạo ra tính cá biệt trong đa dạng về mô thức phát triển. Những cơ hội mới, những thách thức mới đang và sẽ đặt ra ngày càng nhiều và đa dạng hơn cho mỗi doanh nghiệp, quốc gia và toàn thế giới.

Năm 2008, các thể chế thị trường tự do cao độ, thiên vị lợi ích cá nhân và cục bộ, nới lỏng kiểm soát ở Mỹ là nguyên nhân sâu xa gây ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, và chính bản thân các thể chế này cũng tỏ ra bất lực trước cơn đại hồng thủy. Cuộc khủng hoảng lan rộng ra toàn cầu và nhiều nhà lãnh đạo các quốc gia phát triển trên thế giới tìm thấy tiếng nói chung, cùng nhấn mạnh giải pháp căn bản cho cuộc khủng hoảng là phải “tìm ra được một sự cân bằng mới giữa vai trò của nhà nước và thị trường”. Thế giới đang bước vào thời đại kinh tế mới, kinh tế thị trường có điều tiết thích hợp của chính phủ. Trong đó, sẽ có yêu cầu cao hơn về tăng cường vai trò của luật pháp, chế tài, điều tiết nhà nước, kiểm soát các thể chế thị trường, thắt chặt cho vay tín dụng, thiết lập hệ thống thông tin công khai, minh bạch, phát triển các công cụ dự báo, cảnh báo và trừng phạt các sai trái và gian lận. Tư duy mới về “bàn tay của Nhà nước” trong một thế giới đang biến đổi ngày càng đậm nét với các biểu hiện và yêu cầu sau. Thứ nhất, không duy ý chí, giáo điều, cực đoan, quá nhấn mạnh và tuyệt đối hóa vai trò chỉ huy tập trung, mang tính áp đặt một chiều của Nhà nước hoặc thả nổi hoàn toàn và đặt toàn bộ quá trình phát triển kinh tế theo sự dẫn dắt có tính đầu cơ mù quáng. Nói cách khác, cần phải dùng cả hai “bàn tay” nhà nước và thị trường. Thứ hai, phải chủ động tham khảo, đan xen, phối hợp chính sách giữa các quốc gia trong khu vực và toàn cầu, tăng cường trao đổi quốc tế song phương và đa phương. Thứ ba, vai trò đầu tư trực tiếp, trụ cột của Nhà nước ngày càng giảm, song nhà nước có vai trò ngày càng to lớn trong cuộc chiến với các chấn động cơ cấu hoặc chu kỳ kinh tế bột phát. Thứ tư, “bàn tay” điều chỉnh của Nhà nước cần chuyển dịch theo hướng giảm can thiệp hành chính, trực tiếp, chuyển sang phương thức can thiệp gián tiếp, có tính định hướng và giám sát nhiều hơn, tuân thủ các yêu cầu lợi ích thị trường.

Ở Việt Nam, “bàn tay Nhà nước” về cơ bản đã đón nhận và bắt nhịp được với các xu thế chung của thế giới, nhờ đó góp phần đưa kinh tế nước nhà vượt qua những khó khăn to lớn. Tuy nhiên, thực tế những chính sách, thể chế, phương thức tổ chức hoạt động của “bàn tay Nhà nước” vẫn còn một số bất cập do những cái cũ vẫn tồn tại, chưa được đổi mới kịp thời. Để nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, vượt qua các cuộc khủng hoảng, liệu pháp “bàn tay Nhà nước” ở Việt Nam cần được hoàn thiện theo các phương hướng sau. Thứ nhất, cần tiếp tục làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về một số vấn đề lớn và mới trong chủ trương phát triển và quản lý Nhà nước. Cần gạt bỏ những định kiến, ảo tưởng về quyền lực nhà nước, tôn trọng các sáng tạo, đề xuất hợp lý của cấp cơ sở. Đặc biệt, cần thiết lập một chính sách tài chính – tiền tệ thận trọng (không quá lỏng, không quá chặt). Thứ hai, cần tôn trọng yêu cầu khách quan của các quy luật và quy trình quản lý kinh tế, các cam kết hội nhập và sự hài hòa các lợi ích phát triển, không ngừng cải thiện môi trường kinh doanh. Nhà nước cần nâng cao chất lượng công tác xây dựng và quản lý theo quy hoạch; tăng cường phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, tăng cường cải cách hành chính; xây dựng, phát triển đồng bộ các thị trường và các thể chế hỗ trợ thị trường và quản lý nhà nước; tuân thủ đúng quy trình quản lý nhà nước về giá theo nguyên tắc thị trường nhằm bảo đảm cạnh tranh thị trường lành mạnh, ngăn chặn các hành vi lạm dụng và độc quyền, đầu cơ, bán phá giá và các gian lận thương mại khác; coi trọng việc chống tham nhũng và trọng dụng người tài. Thứ ba, cần coi trọng công tác dụ báo, thông tin, phản biện chính sách trong quản lý nhà nước. Dự báo cần bám sát, cập nhật và đưa ra các cảnh báo cần thiết về các xu hướng phát triển mới, các nguy cơ tiềm ẩn, các biến động thị trường trong nước và quốc tế. Thứ tư, cần đảm bảo sự gắn kết hài hòa giữa phát triển kinh tế với quan tâm phát triển văn hóa, giải quyết các vấn đề bức xúc xã hội – môi trường, nâng cao chất lượng và yêu cầu phát triển bền vững. Nhà nước cần quan tâm bảo đảm hài hòa các lợi ích trong quá trình phát triển, giảm cách biệt giữa các tầng lớp, các vùng với nhau; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao…

Thế giới đang và sẽ biến đổi ngày càng nhanh chóng, ai biết trước được các xu hướng phát triển của tương lai và thích ứng hiệu quả với chúng thì người đó sẽ chiến thắng.

2. Sự giống nhau và khác nhau trong quan điểm về một số chức năng của nhà nước giữa tác giả Nguyễn Minh Phong với tác giả Nguyễn Đình An trong bài viết “Chức năng của nhà nước trước tác động của xu thế toàn cầu hóa”

Giữa quan điểm của tác giả Nguyễn Minh Phong trong bài viết “Thế giới đang biến đổi và tư duy mới về ‘bàn tay nhà nước’” và tác giả Nguyễn Đình An trong bài viết “Chức năng của nhà nước trước tác động của xu thế toàn cầu hóa” về một số chức năng của nhà nước có một số điểm giống và khác nhau như sau:

Về phần giống nhau, cả hai tác giả đều cho rằng toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu của thế giới. Trong xu thế toàn cầu hóa, sự quốc tế hóa sản xuất vật chất và phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc thêm đã trở thành một thực tế không thể bàn cãi. Thực tế này cũng làm cho các quá trình trao đổi, hợp tác kinh tế, tài chính, thương mại của các quốc gia trở nên tích cực hơn, và đồng thời cũng làm thay đổi tư duy trong thực hiện chức năng kinh tế của mỗi nhà nước. Hai tác giả cũng đồng ý rằng: nhà nước cần phải xem xét lại các chính sách xã hội và vai trò của mình trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho người lao động. Đó là điều các nhà nước cần hướng tới.

Tuy nhiên trong quan điểm của hai tác giả có một số điểm khác nhau như sau:

Tác giả Nguyễn Đình An cho rằng: toàn cầu hóa đòi hỏi sự quốc tế hóa thị trường, sự gia tăng ảnh hưởng của các công ty xuyên quốc gia, sự thống trị của các cơ cấu siêu nhà nước được tạo ra do kết quả hội nhập kinh tế của các nước. Các quá trình này lại thu hẹp khả năng điều hành nền kinh tế quốc gia từ phía nhà nước. Trong khi đó, tư bản xuyên quốc gia lại có sức mạnh điều tiết nền kinh tế toàn cầu và nếu được phép, nó có thể làm khuynh đảo thị trường của một nhà nước nào đó.

Tác giả Nguyễn Minh Phong lại cho rằng: thị trường tự do thiếu cơ chế giám sát cần thiết là nguyên nhân của những cuộc khủng hoảng và chấn động kinh tế. Khi xảy ra khủng hoảng thì quốc tế hóa, toàn cầu hóa, tìm hướng đi ra thị trường quốc tế là một lối thoát hữu hiệu nhất. Tác giả cho rằng: giải pháp căn bản nhất cho cuộc khủng hoảng đó là nền kinh tế thị trường có sự điều tiết thích hợp của chính phủ. Trong xu thế toàn cầu hóa, sự điều tiết của chính phủ càng ngày càng quan trọng và được nâng cao. Yêu cầu về tăng cường vai trò của luật pháp, chế tài, điều tiết nhà nước, kiểm soát các thể chế thị trường, thắt chặt cho vay tín dụng, thiết lập hệ thống thông tin công khai, minh bạch, phát triển các công cụ dự báo ngày càng tăng cao.

Trên thực tế, bất chấp sự gia tăng áp lực của các tập đoàn xuyên quốc gia do kết quả của hội nhập kinh tế quốc tế, mối quan tâm của các nước đến sự phát triển ổn định và bền vững của nền kinh tế dân tộc, việc tập trung tối đa khả năng của đất nước cho nhiệm vụ phát triển kinh tế trong nước vẫn được giữ vững. Không chỉ thế, trước tác động của toàn cầu hóa, những nội dung thuộc chức năng kinh tế của nhà nước, như cam kết đảm bảo bình thường hoạt động kinh tế trong điều kiện cạnh tranh (hay độc quyền) gay gắt, việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trước các nhà sản xuất thiếu trách nhiệm, việc định ra các cơ sở pháp lý của thị trường,… vẫn được nhiều nước bảo đảm.

3. Quan điểm của cá nhân em về việc thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước Việt Nam hiện nay.

Ở Việt Nam, từ sau khi thành lập nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên sau cách mạng tháng Tám 1945, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc dân. Ngày nay, trong xu hướng toàn cầu hóa, việc thực hiện chức năng kinh tế càng được coi trọng hơn nữa. Chức năng kinh tế của nhà nước được thực hiện tốt là cơ sở để các chức năng khác được thực hiện.

Chức năng kinh tế của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (hay chức năng tổ chức và quản lý kinh tế) được hiểu là những hoạt động chủ yếu, quan trọng nhất mang tính thường xuyên, liên tục thể hiện bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm thực hiện các mục tiêu cơ bản của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế. Việc thực hiện chức năng tổ chức, quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Nhà nước thực hiện chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế bằng pháp luật và các công cụ quản lý kinh tế khác. Nền kinh tế thị trường là hệ thống phức tạp và đầy biến động, sự bất ổn, xâm phạm lợi ích lẫn nhau có thể xảy ra bất cứ lúc nào nếu không có những quy tắc đủ mạnh để điều chỉnh. Do đó, pháp luật là công cụ không thể thay thế để đảm bảo cho các quan hệ kinh tế diễn ra theo trật tự nhất định. Bằng pháp luật, nhà nước tạo ra khung pháp lý cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nhà nước thực hiện vai trò điều chỉnh, ổn định nền kinh tế thông qua các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô như chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng nhằm kiểm soát và hạn chế hậu quả trước các biến động bất lợi của thị trường. Nhà nước tiến hành đổi mới chính sách tiền tệ, giá cả cho phù hợp với cơ chế thị trường, kiềm chế lạm phát ở mức thấp nhất, ổn định sức mua đồng tiền Việt Nam, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn.

Nhà nước xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế. Chính phủ đã lần lượt đề ra các chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội: Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội 10 năm 1991-2000; chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa 10 năm 2001-2010; chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Nhà nước cũng đặt ra các kế hoạch 5 năm và kế hoạch từng năm để thực hiện các chiến lược trên.

Nhà nước xây dựng kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế. Nhà nước huy động các nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở; ban hành quy hoạch tổng thể về đầu tư, phân vùng phát triển kinh tế, trên cơ sở đó xác định rõ các công trình đầu tư trọng điểm, ưu tiên.

Nhà nước tiến hành kiểm tra, giám sát nền kinh tế, qua đó kịp thời phát hiện và xử lý những sai sót, ách tắc, khó khăn, vướng mắc nhằm đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả và theo đúng định hướng. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể tiến hành kiểm tra định kỳ hoặc bất thường, nhà nước quy định chế độ kiểm tra riêng, chặt chẽ hơn đối với doanh nghiệp hoạt động trên quy mô lớn hoặc kinh doanh trong lĩnh vực kinh tế đặc thù (ngân hàng, bảo hiểm…) hay lĩnh vực kinh doanh dễ phát sinh độc quyền hoặc ảnh hưởng đến môi trường sinh thái.

Nhà nước đảm bảo bình đẳng xã hội và giải quyết những khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải hạn chế thấp nhất tình trạng người bóc lột người, bảo đảm sự bình đẳng xã hội. Việc phát triển kinh tế không chỉ đơn thuần là tăng trưởng kinh tế mà phải nhằm phát triển toàn diện con người, giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội, bảo tồn các truyền thống văn hóa của dân tộc và bảo vệ môi trường. Nhà nước đã ban hành và sửa đổi nhiều luật thuế mới đảm bảo sự hài hoà lợi ích giữa ba chủ thể: người lao động - doanh nghiệp - Nhà nước như: Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế thu nhập cá nhân…, đồng thời thực hiện việc điều chỉnh hệ thống tiền lương, thành lập quỹ bảo hiểm xã hội...

Nhà nước thực hiện chức năng quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước và các tập đoàn kinh tế nhà nước. Các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước là lực lượng quan trọng, để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế quốc dân, cung cấp các sản phẩm thiết yếu cho nền kinh tế, ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát, và thực hiện các chương trình an sinh xã hội.

Sau hơn 30 năm đổi mới tư duy kinh tế ở nước ta, nhờ những chính sách hợp lý của Đảng và nhà nước, nền kinh tế Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn.

Trong hơn 30 năm, tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta có mức tăng bình quân 7%/năm, cao hơn mức trung bình trong khu vực và trên thế giới. Năm 2018, tăng trưởng kinh tế đạt 7,08%, mức tăng cao nhất kể từ năm 2008 trở về đây.1 Chất lượng tăng trưởng từng bước được cải thiện, trình độ công nghệ trong sản xuất được nâng lên. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, nợ công có xu hướng giảm dần, dự trữ ngoại tệ tăng, đạt mức an toàn. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ khoảng 100 USD/người/năm vào năm 1986 lên 2.587 USD/người/năm vào năm 2018. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được cải thiện qua chỉ số ICOR giảm từ mức 6,42 năm 2016 xuống 5,97 năm 2018. Cũng trong năm 2018, khu vực doanh nghiệp có nhiều khởi sắc, cả nước có 131.275 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 1.478.101 tỷ đồng, số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động là 34.010 doanh nghiệp.2 Đổi mới sáng tạo cũng có nhiều nổi bật, đến hết năm 2018, Việt Nam có khoảng 3000 doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, tăng gần gấp đôi so với năm 2015. Đây là tín hiện cho thấy khuôn khổ pháp lý đã tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi hơn, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, tác động tích cực đến niềm tin của nhà đầu tư, tăng sự đóng góp của khối tư nhân cho nền kinh tế. Trong 9 tháng đầu năm 2019, tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 10,3%, nhất là khu vực ngoài nhà nước chiếm tỉ trọng 45,3%, tăng 16,9%. Vốn FDI thực hiện cao nhất trong nhiều năm trở lại đây, ước đạt 14,2 tỷ USD, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước.

Các vấn đề an sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi cho mọi người được phát triển khá đồng bộ và ngày càng cải thiện. Vấn đề lao động việc làm, năng suất lao động và tỷ lệ thất nghiệp đều phát triển theo hướng tích cực. Chương trình mục tiêu quốc gia việc làm và dạy nghề mỗi năm đã tạo việc làm cho khoảng 320.000 người; nhiều người khuyết tật, người dân tộc, người ở vùng bị chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp đã được vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm. Năm 2015, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động duy trì ở mức thấp, 2,31%. Năng suất lao động của Việt Nam tăng đều qua các năm, có tốc độ tăng cao nhất trong khu vực ASEAN, đạt 4.512 USD/lao động năm 2018. Tỷ lệ hộ nghèo ở nước ta năm 1993 là 58% giảm xuống còn 6,72% năm 2017. Chính sách xóa đói giảm nghèo ở nước ta được các tổ chức quốc tế đánh giá là thành công.

Với chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, những năm qua, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế toàn diện của Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực.

Xét về mặt kinh tế, Việt Nam là quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc, WTO, IMF, Nhóm Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, ASEAN. Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do đa phương với các nước ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc và một số nước khác. Việt Nam cũng đã ký với Nhật Bản một hiệp định đối tác kinh tế song phương.

Hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam phát triển mạnh, gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, mở rộng thị trường đa dạng các loại hàng hóa tham gia xuất nhập khẩu. Việt Nam hiện đã có quan hệ thương mại với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ... Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm 2018 đạt 2447 tỷ USD, tăng 13,8% so với năm 2017, vượt mục tiêu Quốc hội và Chính phủ đề ra. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu đạt 7,2 tỷ USD. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam đạt được nhiều kết quả ấn tượng. Tổ chức Thương mại và Phát triển Liên Hợp Quốc đánh giá, Việt Nam nằm trong nhóm 12 quốc gia thành công nhất về thu hút FDI.

Bên cạnh những thành tựu to lớn trên, việc thực hiện chức năng kinh tế của nhà nước vẫn còn những hạn chế, yếu kém.

Một là những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp luật kinh tế và các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô. Hệ thống pháp luật kinh tế vẫn chưa đồng bộ, để thực thi cần rất nhiều các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành; các văn bản pháp luật còn chưa rõ ràng, mâu thuẫn, chồng chéo. Hệ thống pháp luật kinh tế thường xuyên thay đổi, không có tính ổn định cao, không có tính dự báo các diễn biến của thị trường, còn nhiều thủ tục hành chính chưa phù hợp với cơ chế tự do kinh doanh. Các chế tài đối với những hành vi vi phạm các quy định trong hoạt động kinh doanh còn chưa đủ mạnh để răn đe; việc thực thi pháp luật có hiệu quả chưa cao, việc giải quyết các tranh chấp còn kéo dài gây mất niềm tin cho doanh nghiệp. Nhà nước vẫn còn kiểm soát, hạn chế và cấm kinh doanh một số lĩnh vực dẫn đến tổn thất kinh tế, lãng phí tài nguyên, kìm hãm các lực lượng kinh tế phát triển.

Hai là những hạn chế, bất cập trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan thực hiện chức năng kinh tế và đội ngũ cán bộ, công chức quản lý kinh tế. Khi sáp nhập các bộ, ngành để tinh gọn bộ máy đã gây ra sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn giữa các bộ và cơ cấu trong các cơ quan. Sự phối hợp giữa các cơ quan chưa hiệu quả dẫn đến tình trạng vướng mắc, kéo dài trong giải quyết yêu cầu của các cá nhân, doanh nghiệp. Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức cũng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của kinh tế đất nước.

Ba là những hạn chế, bất cập trong quản lý các doanh nghiệp nhà nước và tập đoàn kinh tế nhà nước. Các tập đoàn kinh tế nhà nước vẫn còn yếu kém trong quản lý, quen với cơ chế bao cấp, chưa thích nghi với nền kinh tế thị trường, gây thất thoát và lãng phí tài sản quốc gia.

Để nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trước hết cần phải hoàn thiện chức năng xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế. Cần tập trung cho những mục tiêu hiệu quả và phát triển bền vững, tránh ôm đồm quá nhiều mục tiêu; cần có cơ chế kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện các kế hoạch. Thứ hai, cần hoàn thiện chức năng xây dựng pháp luật và các công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước phù hợp với nền kinh tế thị trường. Cần rà soát lại toàn bộ hệ thống pháp luật và văn bản hiện hành để kịp thời phát hiện, sửa đổi những chồng chéo, chưa phù hợp và bổ sung những văn bản còn thiếu. Thứ ba, cần hoàn thiện chức năng xây dựng hệ thống hạ tầng hỗ trợ cho nền kinh tế. Nhà nước cần ưu tiên phát triển hạ tầng thị trường: hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, cơ sở vật chất phục vụ kinh doanh, giao dịch, hệ thống bến bãi, kho hàng và các dịch vụ khác như điện nước, trường học, y tế… Thứ tư, cần hoàn thiện chức năng xây dựng bộ máy nhà nước phục vụ quản lý hiệu quả nền kinh tế thị trường. Cần tiến hành cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, thuận tiện tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài. Cần tăng cường trình độ, năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, tổ chức tuyển chọn một cách dân chủ, công khai.

Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU

Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

You Might Also Like

0 nhận xét