BÀI TẬP NHÓM MÔN LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ HLU

tháng 9 26, 2023

ĐỀ BÀI

Công ty P là nhà sản xuất, phân phối sản phẩm kem đánh răng “Startup” ở Việt Nam từ năm 2005 và sử dụng ổn định bao gói sản phẩm Startup với hình ảnh đôi nam nữ tươi cười để lộ hàm răng bóng cùng slogan “Cho hơi thở thơm mát tự nhiên” được viết in hoa nghiêng, màu sắc chủ đạo của bao gói sản phẩm là màu xanh lá cây, trắng bạc và xanh nước biển. Công ty P đã đăng ký nhãn hiệu Startup và được cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu năm 2009. Sản phẩm của Công ty P cũng đã được biết đến rộng rãi trên thị trường Việt Nam. Tháng 7/2014, công ty P phát hiện trên thị trường sản phẩm kem đánh răng nhãn hiệu “Staff up” của công ty T với bao gói sản phẩm gần như trùng với thiết kế bao gói sản phẩm của công ty P về hình ảnh đôi nam nữ, slogan, cách bố trí và màu sắc như mô tả trên. Công ty P cho rằng công ty T đã có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của mình. 

Căn cứ vào các quy định của pháp luật, hãy phân tích tình huống trên và đưa ra phương án giải quyết.



MỞ ĐẦU

“Ideas must work through the brains and the arms of good and brave men, or they are no better than dreams” – Steve Jobs (tạm dịch: Ý tưởng phải được tạo thành qua khối óc và bàn tay của những người tốt và can đảm, không thì nó cũng chẳng hơn là những giấc mơ). Không một thế lực nào có thể khiến con người ngừng sáng tạo, tuy nhiên bản thân những nhà phát kiến ấy phải có sự trung thực đối với bản thân mình, bằng không những ý tưởng của họ, phải chăng cũng chỉ là những sự sáng tạo bánh xe nhằm theo đuổi những giấc mơ theo con đường mà chẳng ai công nhận và đánh giá cao. Đối chiếu câu nói ấy của Steve Jobs với thực tiễn cuộc sống, có rất nhiều kẻ luôn nuôi những ước mơ vượt tầm với, nên họ chọn cách sao chép lại những ý tưởng đã xuất hiện trước đó theo chiều hướng tiêu cực để rút ngắn con đường ấy. Tình huống trên đây là một ví dụ điển hình, khi công ty T đã “nhân bản” những chất liệu làm nên thương hiệu “Startup” của công ty P mà không hề có những biện pháp đảm bảo quyền lợi cho công ty P. Nhìn dưới lăng kính pháp luật, phải chăng công ty T đã có hành vi được coi là xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của công ty T? Đó chính là câu hỏi mà bài viết dưới đây sẽ tập trung hướng tới và giải quyết. Bài viết của chúng em còn nhiều thiếu sót do kiến thức chuyên ngành còn chưa sâu, mong thầy cô trong tổ bộ môn xem xét và đưa ra cho chúng em những đánh giá và lời khuyên để chúng em hoàn thiện bộ kiến thức cũng như đầu tư tốt hơn cho những bài viết trong tương lai.

Chúng em xin chân thành cảm ơn!

NỘI DUNG

1. Căn cứ vào các quy định của pháp luật để phân tích tình huống trên:

Trước hết, căn cứ theo Khoản 1 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009 và 2019) (sau đây gọi tắt là Luật SHTT 2019), thì: “Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.”

Như vậy, quyền sở hữu trí tuệ theo quy định tại Luật SHTT 2019 bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. Do đó, để có xác định được công ty T có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với công ty P hay không, thì cần phải xác định được những quyền mà công ty P đang có thuộc nhóm quyền nào trong số các quyền sở hữu trí tuệ được nêu trên.

Căn cứ theo Khoản 4 và Khoản 16 Điều 4 Luật SHTT 2019, thì:

“4. Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.”

“16. Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau.”

Như vậy, trong tình huống trên, Công ty P là chủ sở hữu nhãn hiệu “Startup” đăng ký cho sản phẩm kem đánh răng và được cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu năm 2009. Do đó, quyền sở hữu trí tuệ của công ty P trong trường hợp này là quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu.

Trong tình huống đã cho, công ty P cho rằng công ty T đã xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của mình, mà như đã khẳng định trên đây, chính là quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu. Để có thể khẳng định được hành vi của công ty T có xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu của công ty P hay không, ta cần căn cứ vào Điều 5 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ.

Theo đó: “Hành vi bị xem xét bị coi là hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ quy định tại các Điều 28, 35, 126, 127, 129 và 188 của Luật Sở hữu trí tuệ, khi có đủ các căn cứ sau đây:

1. Đối tượng bị xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.

2. Có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét.

3. Người thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ thể quyền sở hữu trí tuệ và không phải là người được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép theo quy định tại các Điều 25, 26, 32, 33, khoản 2 và khoản 3 Điều 125, Điều 133, Điều 134, khoản 2 Điều 137, các Điều 145, 190 và 195 của Luật Sở hữu trí tuệ.

4. Hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam. Hành vi bị xem xét cũng bị coi là xảy ra tại Việt Nam nếu hành vi đó xảy ra trên mạng internet nhưng nhằm vào người tiêu dùng hoặc người dùng tin tại Việt Nam.”

Căn cứ vào những điều kiện để một hành vi bị xem xét bị coi là hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trên đây, có thể khẳng định: Công ty T đã xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với Công ty P. Bởi các lẽ sau đây:

Một là, đối tượng bị xem xét (tức sản phẩm kem đánh răng Staff up của công ty T) thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ:

Điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu được quy định tại Điều 72 Luật SHTT 2019 là:

“Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:

1. Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ảnh ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc;

2. Có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác.”

Như vậy, nhãn hiệu kem đánh răng Startup của công ty P với “hình ảnh đôi nam nữ tươi cười để lộ hàm răng bóng cùng slogan “Cho hơi thở thơm mát tự nhiên” được viết inhoa nghiêng, màu sắc chủ đạo của bao gói sản phẩm là màu xanh lá cây, trắng bạc và xanh nước biển”; là hoàn toàn đáp ứng đủ điều kiện về bảo hộ nhãn hiệu theo quy định của Luật SHTT.

Ngoài ra, Công ty P còn đã đăng ký nhãn hiệu Startup và được cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu năm 2009. Mà theo quy định tại Điều 93 Luật SHTT 2019 về hiệu lực của văn bằng bảo hộ, thì “Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu có hiệu lực từ ngày cấp đến hết mười năm kể từ ngày nộp đơn, …”. Do đó, tính đến thời điểm tháng 7/2014, khi công ty P phát hiện hành vi của công ty T, thì nhãn hiệu kem đánh răng Startup của công ty P vẫn đang được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.

Hai là, có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét:

Khoản 1 Điều 129 Luật SHTT đã quy định cụ thể về các hành vi mà bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu. Điều 11 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP về các yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu cũng quy định các điều kiện để có thể khẳng định rằng đối tượng bị xem xét có yếu tố xâm phạm trong đó hay không, cụ thể là:

“Để xác định một dấu hiệu bị nghi ngờ có phải là yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu hay không, cần phải so sánh dấu hiệu đó với nhãn hiệu, đồng thời phải so sánh sản phẩm, dịch vụ mang dấu hiệu đó với sản phẩm, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ. Chỉ có thể khẳng định có yếu tố xâm phạm khi đáp ứng cả hai điều kiện sau đây:

a) Dấu hiệu bị nghi ngờ trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ; trong đó một dấu hiệu bị coi là trùng với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ nếu có cùng cấu tạo, cách trình bày (kể cả màu sắc); một dấu hiệu bị coi là tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ nếu có một số đặc điểm hoàn toàn trùng nhau hoặc tương tự đến mức không dễ dàng phân biệt với nhau về cấu tạo, cách phát âm, phiên âm đối với dấu hiệu, chữ, ý nghĩa, cách trình bày, màu sắc và gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu;

b) Hàng hoá, dịch vụ mang dấu hiệu bị nghi ngờ trùng hoặc tương tự về bản chất hoặc có liên hệ về chức năng, công dụng và có cùng kênh tiêu thụ với hàng hoá, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ.”

Trong tình huống này: Công ty P đã đăng ký nhãn hiệu Startup và được cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu năm 2009. Công ty T bán ra thị trường sản phẩm kem đánh răng nhãn hiệu “Staff up”. Có thể nhận thấy:

- Cấu trúc tên gọi “Staff up”: gồm 7 ký tự, trong đó có 5 ký tự đều trùng với nhãn hiệu “Startup” đã được bảo hộ và trật tự sắp xếp các từ giống nhau.

- Cấu trúc phát âm “Staff up” tương tự với phát âm tên gọi “Start up”

- Nhãn hiệu của sản phẩm “Staff up” với bao gói sản phẩm gần như trùng với thiết kế bao gói sản phẩm của công ty P về hình ảnh đôi nam nữ, slogan, cách bố trí và màu sắc.

Như vậy, có thể khẳng định, nhãn hiệu kem đánh răng của Staff up của công ty T đã bị coi là tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu kem đánh răng Startup của công ty P.

Không chỉ vậy, hàng hoá, dịch vụ mang dấu hiệu bị nghi ngờ (tức sản phẩm kem đánh răng Staff up) còn trùng về bản chất và có cùng kênh tiêu thụ với hàng hoá, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ (tức sản phẩm kem đánh răng Startup).

Do đó, đã có đủ căn cứ để kết luận rằng sản phẩm của công ty T đã có yếu tố xâm phạm đối với sản phẩm của công ty P.

Ba là, người thực hiện hành vi bị xem xét (tức công ty T) không phải là chỉ thể quyền sở hữu trí tuệ và không phải người được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 125 của Luật Sở hữu trí tuệ.

Bốn là, hành vi bị xem xét xảy ra ở Việt Nam.

Tuy nhiên, hành vi của công ty T không chỉ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với công ty P, mà còn là hành vi cạnh tranh không lành mạnh.Khoản 6 điều 3 Luật Cạnh tranh 2018 quy định:

“Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi của doanh nghiệp trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác.”

Điều 130 Luật SHTT 2019 lại quy định:

“1. Các hành vi sau đây bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh:

a) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hoá, dịch vụ;

b) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng hoá, dịch vụ;

2. Chỉ dẫn thương mại quy định tại khoản 1 Điều này là các dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn thương mại hàng hoá, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của hàng hoá, nhãn hàng hoá.

3. Hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại quy định tại khoản 1 Điều này bao gồm các hành vi gắn chỉ dẫn thương mại đó lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch kinh doanh, phương tiện quảng cáo; bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu hàng hoá có gắn chỉ dẫn thương mại đó.”

Với tình huống này, công ty T đã có hành vi: Sử dụng bao bì của hàng hóa tương tự gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất và chất lượng.

Đây là hành vi cạnh tranh không lành mạnh bởi vì:

Thứ nhất: Bao gói của sản phẩm mang nhãn hiệu “Startup” của công ty P không được bảo hộ về kiểu dáng công nghiệp do công ty P không tiến hành đăng ký.

Thứ hai: Bao gói sản phẩm kem đánh răng của công ty P đã được sử dụng rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam từ năm 2005. Cùng với sự có mặt trên thị trường liên tục trongmột thời gian dài, nên có thể khẳng định kiểu dáng bao bì sản phẩm kem đánh răng của công ty P đã được biết đến và sử dụng rộng rãi.

Thứ ba: Hai công ty là hai chủ thể sản xuất và phân phối cùng một loại sản phẩm kem đánh răng, có giá bán tương tự và cạnh tranh trực tiếp trên thị trường.

Thứ tư: Lỗi của công ty T là lỗi cố ý sử dụng kiểu dáng bao bì tương tự để gây nhầm lẫn do công ty P đã sử dụng kiểu dáng bao gói này từ năm 2005 và phân phối rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Đến 2014 công ty T mới sản xuất và đưa ra thị trường sản phẩm kem đánh răng có bao gói tương tự. Như vậy, dù biết trên thị trường đã có sản phẩm kem đánh răng mang nhãn hiệu: “Startup” có kiểu dáng bao bì như vậy nhưng công ty T vẫn cố tình sử dụng các dấu hiệu tương tự đến mức gây nhầm lẫn cho sản phẩm trùng là kem đánh răng như đã chứng minh ở trên đông thời trình bày bao gói của sản phẩm tương tự với bao gói của công ty P trong khi công ty T có thể lựa chọn, thiết kế mẫu mã bao bì khác cho sản phẩm của công ty mình.

2. Đề xuất phương hướng giải quyết:

Điều 198 Luật SHTT 2019 quy định quyền tự bảo vệ, theo đó cho phép chủ thể bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được lựa chọn những biện pháp nhất định để bảo vệ quyền của mình. Cụ thể:

“1. Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền áp dụng các biện pháp sau đây để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình:

a) Áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ;

b) Yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại;

c) Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan;

d) Khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình”

Theo đó, trong tình huống này, công ty P có thể lựa chọn các biện pháp sau để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình:

1. Gửi thư khuyến cáo

Trong trường hợp này, công ty P có thể gửi thư khuyến cáo tới công ty T thông báo về quyền sở hữu công nghiệp của mình và yêu cầu công ty T chấm dứt hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của mình, gồm các nội dung như sau:

- Thông tin về công ty P.

- Các bằng chứng chứng minh tư cách chủ thể quyền của công ty P đối với nhãn hiệu Startup (Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu, phạm vi, thời hạn bảo hộ…)

- Các bằng chứng cho thấy công ty T có hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu công nghiệp của công ty P.

- Trong thư nêu rõ yêu cầu công ty T chấm dứt hành vi xâm phạm, yêu cầu thu hồi các sản phẩm có chứa dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của công ty P, yêu cầu công ty T xin lỗi, cải chính công khai trên phương tiện truyền thông đại chúng, và bồi thường thiệt hại.

- Ấn định khoảng thời hạn hợp lý để công ty T chấm dứt hành vi xâm phạm.

Ưu điểm của biện pháp này khi hai bên đạt được thỏa thuận là vấn đề sẽ được giải quyết nhanh chóng, ít tốn kém về thời gian và tiền bạc. Tuy nhiên, kết quả của giải pháp này phụ thuộc vào thái độ, sự tôn trọng của công ty T nên có thể kết quả sẽ không theo ý muốn của công ty P.

2. Biện pháp hành chính

Trong trường hợp công ty P đã gửi thư khuyến cáo yêu cầu công T chấm dứt hành vi xâm phạm nhưng công ty T vẫn cố ý không chấm dứt, công ty P có thể yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử phạt hành chính đối với công ty T về các hành vi: xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, sản xuất, buôn bán, tàng trữ để bán hàng hóa giả mạo nhãn hiệu và hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.

Theo quy định tại Điều 15 Nghị định 99/2013/NĐ-CP, các chủ thể có thẩm quyền xử phạt hành chính đối với công ty T bao gồm: Thanh tra Khoa học và công nghệ, Quản lý thị trường, và Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh.

Để có thể yêu cầu xử lý vi phạm hành chính đối công ty T, công ty P cần gửi đơn yêu cầu xử lý vi phạm tới cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm kèm với các tài liệu, chứng cứ, hiện vật như sau:

- Chứng cứ chứng minh công ty P là chủ thể quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu Startup. (văn bằng bảo hộ)

- Chứng cứ chứng minh công ty T hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh của công ty P. (vật mẫu, hiện vật, biên bản giải trình, so sánh giữa 2 sản phẩm)

- Bản sao thông báo của công ty P gửi cho công ty T, trong đó đã ấn định một khoảng thời gian hợp lý để công ty T chấm dứt hành vi vi phạm, và chứng cứ chứng minh công ty T không chấm dứt hành vi xâm phạm.

- Chứng cứ và hiện vật về hàng hóa giả mạo về quyền sở hữu trí tuệ (bao bì và sản phẩm kem đánh răng Staff up)

Các hình thức xử lý hành chính được quy định tại Điều 214 Luật SHTT 2005.

2.1. Hình phạt chính

Phạt cảnh cáo: được áp dụng đối với vô ý vi phạm. Trong tình huống trên cần xem xét công ty T là cố ý hay vô ý.

Phạt tiền: Căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, người có thẩm quyền quyết định mức phạt trong khung hình phạt đã quy định. Mức tiền phạt cụ thể đối với hành vi vi phạm là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó trong trường hợp không có tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ.

2.2 Hình phạt bổ sung

Tịch thu hàng hóa giả mạo về nhãn hiệu, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất

Tịch thu văn bằng bảo hộ, tài liệu chứng minh quyền SHTT

Đình chỉ có thời hạn hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực đã xảy ra vi phạm.

Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn có thể bị áp dụng một hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả sau đây: Buộc tiêu hủy hoặc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.

Thủ tục của biện pháp hành chính có lợi thế là đơn giản hơn so với thủ tục tố tụng dân sự, do đó tiết kiệm được thời gian và chi phí cho công ty P. Tuy nhiên, nếu chỉ áp dụng biện pháp hành chính, công ty P sẽ không nhận được tiền bồi thường thiệt hại. Tiền nộp phạt của công ty T sẽ được nộp về kho bạc nhà nước.

3. Biện pháp dân sự

Công ty P có thể lựa chọn phương pháp khởi kiện công ty T ra Tòa án nhân dân cấp tỉnh/thành phố về hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu của công ty mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

Công ty P có thể gửi đơn kiện lên tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi công ty T đặt trụ sở yêu cầu tòa ra phán quyết buộc công ty T:

- Chấm dứt hành vi xâm phạm quyền của công ty P

- Xin lỗi, cải chính công khai

- Bồi thường thiệt hại

- Ngoài khoản bồi thường thiệt hại, công ty P có quyền yêu cầu tòa án buộc công ty T phải thanh toán chi phí hợp lý để thuê luật sư.

Khi lựa chọn phương án giải quyết bằng con đường khởi kiện dân sự, công ty P cũng có nghĩa vụ cung cấp các tài liệu, chứng cứ, hiện vật như khi yêu cầu xử lý vi phạm hành chính. Đồng thời, nếu công ty P muốn yêu cầu công ty T bồi thường thiệt hại thì phải chứng minh được thiệt hại thực tế đã xảy ra và nêu căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại theo quy định của Điều 205 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, gồm:

- Tổng thiệt hại vật chất tính bằng tiền cộng với khoản lợi nhuận công ty T thu được do thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của công ty P.

- Giá chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu với giả định công ty T được công ty P chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu theo hợp đồng sử dụng nhãn hiệu trong phạm vi tương ứng.

Ưu điểm: Nếu lựa chọn phương pháp này, công ty P có thể nhận được khoản tiền bồi thường từ công ty T. Việc xin lỗi, cải chính công khai có thể giúp phục hồi, nâng cao danh tiếng của công ty P. Tuy nhiên, thủ tục giải quyết khá phức tạp nên phát sinh nhiều chi phí. Thời gian xét xử có thể kéo dài nhiều năm, ảnh hưởng đến việc kinh doanh của công ty P.

4. Biện pháp hình sự

Biện pháp hình sự được áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm trong trường hợp hành vi đó có yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của BLHS. Trong việc bảo vệ quyền SHCN đối với nhãn hiệu, biện pháp này thường được cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng đối với các hành vi xâm phạm quyền của chủ sở hữu, gây hậu quả nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của họ, ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội.

Theo các quy định của pháp luật, cụ thể trong BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 thì cơ chế pháp lý hình sự để bảo vệ quyền SHCN được áp dụng cho tội danh sau: Tội xâm phạm quyền Sở hữu công nghiệp theo Điều 226.

KẾT LUẬN

Bài viết trên đã đưa ra quan điểm của nhóm chúng em về các phương án giải quyết tình huống được đưa ra – hoàn toàn có yếu tố xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đến từ phía công ty T đối với công ty P qua hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Chính vì vậy, cần có đồng thời những biện pháp xử lý vi phạm sau đó thật nghiêm minh để đảm bảo quyền lợi cho công ty P. Tuy nhiên, thực tế giải quyết vụ việc hẳn còn tồn đọng nhiều yếu tố mâu thuẫn cũng như những sự phản kháng về mặt pháp lý tới từ phía công ty T, cho nên đây cũng sẽ là một bài toán hóc búa cho cả các nhà làm luật nghiên cứu và các nhà làm luật thực tiễn cùng bàn luận và đi tới những kết luận chính xác, đắt giá và công minh để đảm bảo lợi ích cho bên bị xâm phạm quyền lợi nói riêng và đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật nói chung.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005; sửa đổi, bổ sung năm 2009 và 2019

2. Luật Cạnh tranh năm 2018

3. Bộ Luật Hình sự năm 2015; sửa đôi, bổ sung năm 2017.

4. Nghị định 99/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.

5. Nghị định 105/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ.

Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU

Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

You Might Also Like

0 nhận xét