Quy luật giá trị - Liên hệ với thực tiễn phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay

tháng 9 26, 2023

 

MỞ ĐẦU

Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế được nhiều quốc gia lựa chọn phát triển, trong đó có Việt Nam. Sau hơn 30 năm đổi mới, mô hình kinh tế thị trường của Việt Nam từng bước phát triển, tư duy và nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa liên tục được đổi mới. Trong bối cảnh ấy, các quy luật kinh tế chính trị đóng vai trò định hướng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của xã hội, đặc biệt là quy luật giá trị. Đây chính là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa, quy định bản chất của sản xuất hàng hóa, là cơ sở của tất cả các quy luật khác của sản xuất hàng hóa. Mọi hoạt động của chủ thể kinh tế trong sản xuất và lưu thông hàng hóa đều chịu sự tác động của quy luật giá trị. 

Nhận thức được tầm quan trọng của quy luật giá trị, sau đây em xin được trình bày về vấn đề “Quy luật giá trị - Liên hệ với thực tiễn phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay” để có một cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề này.

NỘI DUNG

I. Cơ sở lý luận về quy luật giá trị

1. Khái niệm

Trong đời sống hàng ngày, đằng sau các hiện tượng muôn hình muôn vẻ, con người dần nhận thức được trật tự và mối quan hệ có tính lặp lại của các hiện tượng, từ đó hình thành nên khái niệm “quy luật”. Quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi sự vật, hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.

Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa vì nó quy định bản chất của sản xuất hàng hóa, là cơ sở của tất cả các quy luật khác của sản xuất hàng hóa.

2. Nội dung và yêu cầu của quy luật giá trị

Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị. 

Yêu cầu chung của quy luật giá trị là việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với một trình độ trang thiết bị trung bình, trình độ thành thạo trung bình, và cường độ lao động trung bình trong xã hội đó. Cụ thể:

Trong quá trình sản xuất hàng hóa: 

Mọi quá trình sản xuất có mức thời gian hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hoặc bằng mức thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết thì tồn tại và phát triển. Mọi quá trình sản xuất có mức thời gian hao phí lao động cá biệt lớn hơn mức thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết thì không tồn tại. Nói cách khác, mức thời gian hao phí lao động cá biệt càng thấp thì người sản xuất càng có khả năng phát triển kinh doanh, thu được nhiều lợi nhuận. Người có mức hao phí lao động cao hơn mức hao phí lao động trung bình thì sẽ bị thua lỗ, phá sản. Người có mức hao phí lao động bằng mức hao phí trung bình thì hòa vốn. Người có mức hao phí lao động thấp hơn mức hao phí lao động trung bình của xã hội thì có tiền lời. 

 Ví dụ: Giá bán trên thị trường của một chiếc nón lá là 50.000 đồng. Nhà sản xuất nón lá A có tổng chi phí sản xuất là 60.000 đồng/chiếc. Vậy nhà sản xuất A sẽ bị thua lỗ, phá sản. Quy luật giá trị cho thấy rằng, chỉ có những nhà sản xuất có chi phí sản xuất nón lá từ 50.000 đồng/chiếc trở xuống mới có thể tồn tại.

Trong quá trình trao đổi hàng hóa:

Với hàng hóa cùng loại, có cùng lượng giá trị phải được bán cùng giá hay trao đổi ngang giá. Bởi lẽ để sản xuất hàng hóa đó cần có cùng một mức hao phí trung bình, vậy nó biểu hiện ra cùng một thị trường phải cùng bằng một mức giá tương ứng. Tuy nhiên, giá bán trên thị trường còn phải phụ thuộc vào chi phí vận chuyển. Ví dụ, một sản phẩm được sản xuất ra ở Hà Nội, với chi phí trung bình 5.000 đồng, bán trên thị trường ở Hà Nội với giá 5.000 đồng/sản phẩm. Giả sử phí vận chuyển từ Hà Nội về Hải Dương là 500 đồng/sản phẩm thì giá bán ở Hải Dương là 5.500 đồng/sản phẩm.

Với hàng hóa khác loại thì tỷ lệ trao đổi giữa chúng là do tỷ lệ so sánh về thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó với nhau quyết định. Ví dụ: Để sản xuất ra 1kg rau cần 5 giờ lao động, sản xuất ra 1 chiếc xe máy cần 25.000 giờ lao động. Vậy tỷ lệ trao đổi giữa rau xanh và xe máy là 5 tấn rau bằng 1 chiếc xe máy và giá bán của 1 chiếc xe máy trên thị trường sẽ gấp 5000 lần giá bán của 1kg rau.

Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hóa nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược lại. Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như: cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả của hàng hóa trên thị trường tách rời với giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động giá cả thị trường của hàng hóa xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng.

3. Tác động của quy luật giá trị

Trong sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị có ba tác động chủ yếu sau:

a) Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa

Trong sản xuất, quy luật giá trị điều tiết việc phân phối tư liệu sản xuất và sức lao động giữa các ngành sản xuất trên phạm vi cá biệt và phạm vi xã hội, làm cho các yếu tố sản xuất như tư liệu sản xuất, sức lao động, tiền vốn được chuyển từ ngành này sang ngành khác, làm cho quy mô ngành này mở rộng, ngành kia thu hẹp.

Ở phạm vi cá biệt, quy luật giá trị dẫn dắt hành động của người sản xuất, để họ quyết định sản xuất cái gì, sản xuất bằng công nghệ gì, sản xuất cho ai, mục đích là thu lãi bao nhiêu. Dựa vào sự biến động của giá cả thị trường do tác động của cung cầu người ta biết hàng nào đang thiếu, đang thừa, từ đó người sản xuất sẽ mở rộng sản xuất mặt hàng thu nhiều lãi, hạn chế sản xuất những mặt hàng ế, thừa.

Ở phạm vi xã hội, quy luật giá trị phân bổ nguồn lực xã hội vào các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Ví dụ ngành nông nghiệp, trên một cánh đồng thay vì dùng sức lao động tay chân để trồng lúa, người ta đổi sang dùng máy móc. Khi đó, từ mức cần 100 người làm giờ chỉ cần 10 người làm. Như vậy, 90 người còn lại được phân bổ sang các ngành nghề khác để phát triển các ngành khác hoặc phát triển ngành mới.

Trong lưu thông, quy luật giá trị điều tiết lưu thông thông qua giá cả trên thị trường. Sự biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hóa thông suốt. Ví dụ, giá bán 1kg vải ở Hải Dương là 15.000 đồng/kg, giá bán 1kg vải ở Hà Nội là 50.000 đồng/kg. Khi đó, vải sẽ được chuyển từ Hải Dương lên Hà Nội để bán. 

b) Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển

Trong nền sản xuất hàng hoá, mỗi người sản xuất hàng hoá là một chủ thể kinh tế độc lập, tự quyết định việc sản xuất kinh doanh của mình. Cùng một loại hàng hóa, người nào sản xuất rẻ hơn, bán được nhiều hơn thì chiếm lĩnh được nhiều thị phần hơn; dần dần buộc những người khác cũng phải áp dụng các phương pháp ít tốn kém hơn, làm cho năng suất lao động tăng lên, thời gian lao động xã hội cần thiết giảm xuống. Người sản xuất nào muốn tồn tại và phát triển thì phải tìm cách nâng cao trình độ tay nghề, sử dụng thành tựu mới khoa học kỹ thuật vào sản xuất, cải tiến công tác tổ chức quản lý sản xuất để giảm hao phí lao động cá biệt của mình. Ngoài ra họ còn phải thường xuyên cải tiến chất lượng mẫu mã hàng hoá cho phù hợp với nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, cải tiến lưu thông bán hàng để tiết kiệm phí lưu thông và tiêu thụ sản phẩm nhanh. 

Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết quả là lực lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ, từ đó làm cho kỹ thuật của toàn xã hội phát triển lên trình độ cao hơn, năng suất tăng cao hơn. Quy luật giá trị đã kích thích, buộc nhà sản xuất phải không ngừng hoàn thiện kỹ thuật sản xuất để đảm bảo sự sinh tồn của mình.

c) Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa thành kẻ giàu người nghèo

Trong sản xuất hàng hoá, người sản xuất nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, thì sẽ thu được nhiều lãi và trở nên giàu có, có thể mua thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh, thậm chí trở thành ông chủ. Những người giàu bỏ tiền ra đầu tư, mở công ty tập đoàn, tuyển những người khác vào làm, hình thành nên mô hình sản xuất kiểu tư bản chủ nghĩa. Ngược lại những người có trình độ năng lực yếu, quy mô sản xuất thấp, công nghệ lạc hậu hoặc gặp rủi ro dẫn đến phá sản, trở thành người nghèo. Tác động này của quy luật giá trị giúp đào thải cái yếu kém kích thích nhân tố tích cực phân hoá sản xuất thành những người giàu và nghèo tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển nền sản xuất lớn hiện đại. 

Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Do đó đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, nhà nước cần có những biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặc biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

II. Thực tiễn việc vận dụng quy luật giá trị ở Việt Nam trong phát triển kinh tế hiện nay

1. Thực tiễn vận dụng quy luật giá trị trong phát triển kinh tế ở Việt Nam

a) Đối với lĩnh vực sản xuất hàng hóa

Trong sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị được áp dụng thực hiện với 2 vấn đề chính sau:

Thứ nhất, việc hoạch toán kinh tế của các doanh nghiệp sản xuất

Đối với nền kinh tế thị trường hiện nay tại Việt Nam, các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa đang cạnh tranh với nhau khá mạnh mẽ. Do đó, để có thể đảm bảo được vị trí của mình cũng như đứng vững ở các vị trí đó, vượt qua được các đối thủ khác thì doanh nghiệp cần phải thực hiện tính toán về vấn đề hiệu quả của hoạt động kinh doanh.

Cụ thể, các hiệu quả đó được đánh giá thông qua các hình thức giá trị, giá cả của hàng hóa, lợi nhuận thu được, các khoản chi phí liên quan,... Theo đó, để đảm bảo mang lại lợi nhuận cao thì các doanh nghiệp sẽ cần phải làm sao để có thể hạ thấp được các chi phí trong hoạt động sản xuất của mình. Doanh nghiệp có thể hợp lý hóa về quy trình, tiết kiệm các chi phí không cần thiết, gia tăng về năng suất lao động hơn nữa,...

Như vậy, để có thể đảm bảo thực hiện được các vấn đề đó, doanh nghiệp cần phải hiểu và nắm rõ về các quy luật giá trị áp dụng như thế nào trong việc hoạch toán kinh tế. Và rất nhiều doanh nghiệp hiện nay vẫn luôn thực hiện rất tốt về vấn đề này. Đặc biệt, nhà nước hiện nay đều quyết định cổ phần hóa đa số các doanh nghiệp thuộc nhà nước và chỉ giữ lại một số doanh nghiệp hoạt động trong ngành liên quan đến an ninh quốc gia.

Do đó, các doanh nghiệp khác đều sẽ chuyển thành mô hình cổ phần, đồng thời sẽ có nhiều chủ sở hữu, nhiều cổ đông làm việc vì lợi ích chung. Chính vì vậy mà việc áp dụng đúng đắn các quy luật giá trị trong vấn đề hoạch toán kinh tế là điều hết sức cần thiết, quan trọng cho các doanh nghiệp hiện nay, nhất là các doanh nghiệp với mô hình cổ phần.

Thứ hai, việc hình thành nên giá thành của sản phẩm sản xuất

Nước ta trước đây hoạt động kinh tế theo cơ chế quan liêu bao cấp và toàn bộ giá cả của các sản phẩm, loại hàng hóa đều được quyết định bởi Chính phủ. Tuy nhiên, sau giai đoạn đổi mới thì toàn bộ vấn đề liên quan đến giá cả của hàng hóa lại phụ thuộc vào thị trường. Theo đó, nhà nước chủ trương cần phải vận dụng được tối đa các quy luật giá trị vào quá trình sản xuất và định giá thành của sản phẩm khi tung ra thị trường và giá cả phải do chính giá trị của các sản phẩm đó quyết định.

Mặc dù vậy thì xét trên thực tế, giá cả của các mặt hàng trên thị trường hiện nay lại phụ thuộc và chịu tác động khá lớn bởi nhiều yếu tố liên quan khác như là vấn đề cung – cầu của con người, yếu tố cạnh tranh, sức mua của đồng tiền,... Và những vấn đề đó thì không thể nào tuân theo được ý muốn và quyết định của nhà nước được. Thông qua sự điều chỉnh này thì có thể thấy, nhà nước cũng đã và đang phần nào nhận thấy được tầm quan trọng của các quy luật giá trị trong quá trình sản xuất hàng hóa.

b) Đối với lĩnh vực lưu thông hàng hóa

Bên cạnh quá trình sản xuất thì vấn đề lưu thông hàng hóa cũng cần phải áp dụng theo quy luật giá trị nhất định. Như đã phân tích ở trên, nguyên tắc cho vấn đề trao đổi – lưu thông hàng hóa sẽ cần phải thực hiện theo hình thức ngang giá. Và hàng hóa theo tác động của quy luật giá trị, hàng hóa sẽ được chuyển từ những thị trường có giá cả thấp đến thị trường có giá cao hơn, từ những nơi mà có nguồn cung nhiều đến những nơi có nhu cầu nhiều,... Thông qua đó thì hàng hóa giữa các vùng miền sẽ được phân bố hợp lý, cần đối hơn.

Hiện nay, nhà nước cũng đang vận dụng khá tốt quy luật giá trị vào vấn đề lưu thông hàng hóa. Cụ thể đó là việc định giá cả của các loại sản phẩm, hàng hóa sát so với giá trị của chúng; thông qua giá trị sản phẩm kích thích nhu cầu cải tiến kỹ thuật, công tác quản lý.

Bên cạnh đó, nhà nước cũng không ngừng chủ động thực hiện việc tách giá cả của sản phẩm ra khỏi giá trị của chúng ở những thời kỳ khác nhau. Từ sự chênh lệch giữa 2 yếu tố đó mà thực hiện điều tiết một phần hay toàn bộ quá trình sản xuất – lưu thông hàng hóa, đồng thời điều chỉnh về mối quan hệ cung – cầu hay hoạt động phân phối hàng hóa giữa các vùng miền.

Như vậy, giá cả được xem là một công cụ kinh tế vô cùng quan trọng, cần thiết đối với việc lên các kế hoạch về vấn đề tiêu dùng xã hội hiện nay mà các doanh nghiệp và nhà nước cần phải hết sức quan tâm, chú ý.

2. Thành tựu của việc vận dụng quy luật giá trị trong phát triển kinh tế ở Việt Nam

Sau hơn 30 năm thực hiện đổi mới nền kinh tế, chủ yếu nhờ các biện pháp giải phóng sức lao động trong nước và mở cửa nền kinh tế, tận dụng nguồn lực bên ngoài, nền kinh tế Việt Nam đã có sự biến đổi rõ rệt.

Trong 10 năm gần đây (2010 – 2019), tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được duy trì ở mức hợp lý. Tốc độ tăng GDP bình quân 10 năm đạt 6,29%/năm, có 6/10 năm đạt chỉ tiêu Quốc hội đề ra. Quy mô và tiềm lực của nền kinh tế liên tục tăng lên. GDP năm 2019 đạt 262 tỷ USD gấp 2,26 lần GDP năm 2010 (116 tỷ USD). Giá trị gia tăng ngành công nghiệp, xây dựng tăng bình quân 7,33%/năm, tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong cơ cấu công nghiệp tăng. Khu vực nông nghiệp cơ bản phát triển ổn định, giá trị gia tăng bình quân 2,81%/năm. Năng suất, sản lượng và hàm lượng công nghệ trong sản phẩm nông nghiệp và nuôi trồng thủy hải sản tăng đáng kể; an ninh lương thực quốc gia được bảo đảm; một số sản phẩm xuất khẩu chiếm được vị trí cao trên thị trường quốc tế. Tổng doanh thu dịch vụ tăng bình quân 6,85%/năm. Năm 2019, Việt Nam đón trên 18 triệu lượt khách quốc tế (tăng gần 4 lần so với 5 triệu khách năm 2010).

Thu nhập bình quân đầu người năm 2019 khoảng trên 3000 USD, gấp gần 3 lần thu nhập bình quân đầu người năm 2010 (1160 USD). Mức sống của người dân được nâng cao, tỉ lệ hộ nghèo giảm, chỉ số phát triển con người tiếp tục được nâng lên. Tăng trưởng kinh tế góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ công, bảo đảm an sinh xã hội, góp phần quan trọng trong quá trình xóa đói, giảm nghèo. Kết quả tăng trưởng dẫn đến trình độ dân trí tăng, đặc biệt nỗ lực thoát nghèo của chính người nghèo đã khiến một bộ phận người dân Việt Nam thoát nghèo và có cuộc sống khá giả hơn.

Bước sang năm 2020, khi cả thế giới điêu đứng vì dịch Covid-19, Việt Nam cũng không ngoại lệ. Tăng trưởng GDP quý I/2020 ước đạt 3,82% so với cùng kỳ năm trước – mức tăng thấp nhất từ năm 2011. Tuy nhiên, xét ở tầm khu vực và so với nhiều nền kinh tế khác, kết quả này đạt mức khá. Việt Nam là một trong số ít các quốc gia đạt tăng trưởng dương quý I/2020.

3. Hạn chế của việc vận dụng quy luật giá trị trong phát triển kinh tế ở Việt Nam

Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế vẫn còn dựa nhiều vào vốn, lao động trình độ thấp, chưa dựa nhiều vào tri thức, khoa học - công nghệ và lao động có kỹ năng.

Đóng góp của năng suất yếu tố tổng hợp - TFP (đổi mới công nghệ, hợp lý hóa quá trình sản xuất, nâng cao hiệu quả quản lý, kỹ năng của người lao động...) ở Việt Nam vẫn thấp hơn so với một số nước khác trong cùng giai đoạn tăng trưởng nhanh như: Ấn Độ (49%), Thái Lan và Philippines (70%), Malaysia (64%).

Thứ hai, tăng trưởng kinh tế không bền vững, còn phụ thuộc nhiều vào khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).

Ví dụ năm 2017, trong hơn 220 tỷ USD GDP thì có tới hơn 60 tỷ USD do Samsung “đóng góp” từ điện thoại di động và các thiết bị điện tử. 

Thứ ba, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, năng suất lao động chậm được cải thiện, thấp hơn nhiều so với một số nước trong khu vực.

Hiệu quả sử dụng vốn của Việt Nam giai đoạn 2010 - 2019 đã tăng lên so với giai đoạn trước, tuy nhiên tăng rất ít và so với một số nước ở cùng thời kỳ tăng trưởng nhanh, hiệu quả sử dụng vốn của Việt Nam còn thấp. Nguyên nhân hiệu quả sử dụng vốn của Việt Nam thấp chủ yếu là do phân bổ vốn và quản lý quá trình đầu tư vốn chưa hợp lý, còn nhiều bất cập.

Năng suất lao động của Việt Nam giai đoạn 2010 – 2019 tuy cũng tăng lên so với giai đoạn trước, song so với nhiều nước trong khu vực còn thấp hơn rất nhiều. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, năm 2016, năng suất lao động của Việt Nam đạt 9.894 USD, chỉ bằng 7% Singapore; 17,6% Malaysia; 36,5% Thái Lan; 42,3% Indonesia; 56,7% Philippines.

Thứ tư, khả năng duy trì tăng trưởng kinh tế trong tương lai còn thấp.

Máy móc, thiết bị và quy trình công nghệ của Việt Nam hiện rất lạc hậu. Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đang sử dụng công nghệ tụt hậu 2-3 thế hệ so với mức trung bình của thế giới. Hơn nữa, chất lượng lao động của Việt Nam thấp. Đến cuối năm 2019, chỉ có khoảng 23,1% lao động cả nước đã qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ. Bên cạnh đó, ý thức chấp hành kỷ luật lao động không cao; lao động thiếu các kỹ năng mềm, trình độ ngoại ngữ hạn chế. Đây là rào cản lớn cho việc cải thiện năng suất lao động.

III. Một số giải pháp nhằm vận dụng quy luật giá trị ở nước ta trong thời gian tới

Thứ nhất, xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia.

Để nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, không rơi vào bẫy thu nhập trung bình, Chính phủ cần xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia: Tăng cường quản trị công, nguồn nhân lực, hệ thống đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp, nâng cao đóng góp của các trường đại học và cơ sở nghiên cứu nhà nước.

Thứ hai, nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực.

Để thực hiện điều này cần: Đổi mới hệ thống giáo dục, đặc biệt là giáo dục về công nghệ, khoa học; kết hợp nhà trường và doanh nghiệp; đào tạo, phát triển nguồn nhân lực gắn với phát triển kinh tế, xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế; coi trọng việc phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng hợp lý nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài…

Thứ ba, chú trọng phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong nước.

Cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện khung pháp lý để thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển; cần quan tâm, tạo điều kiện về đất đai, vốn, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi cho phát triển khu vực kinh tế tư nhân; đẩy mạnh việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng cho phát triển kinh tế tư nhân.

Thứ tư, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chính phủ cần hoàn thiện pháp luật về kinh tế, đặc biệt là pháp luật liên quan đến sở hữu, doanh nghiệp, thị trường, lao động, khoa học và công nghệ, đầu tư; hoàn thiện các chính sách về kinh tế như chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách thương mại, chính sách việc làm...; hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, từ cấp Chính phủ đến ủy ban nhân dân các cấp.

Thứ năm, cần tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam.

Khu vực doanh nghiệp cần xây dựng chương trình cắt giảm chi phí sản xuất trong từng công đoạn sản xuất với từng sản phẩm. Nhà nước cần thực hiện chính sách hỗ trợ có điều kiện trong một khoảng thời gian nhất định để dần dần tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm; mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu bằng cách mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới, hỗ trợ xúc tiến thương mại ở các thị trường giàu tiềm năng.

KẾT LUẬN

Quy luật giá trị là một quy luật kinh tế quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nền kinh tế nước ta thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là quy luật căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn còn nặng tính nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật còn phụ thuộc các nước khác, tuy nhiên Đảng và nhà nước đã nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng trong việc đổi mới xã hội cũng như hiểu rõ vai trò và tác dụng của quy luật giá trị mà từ đó thực hiện các cuộc cải cách kinh tế phù hợp, đạt được nhiều thành tựu đáng kể, tuy nhiên trong thời gian qua, sự vận dụng đó nhiều khi  còn dập khuôn máy móc, cần phải có những biện pháp khắc phục những hạn chế này.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

* Giáo trình:

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.

2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác - Lênin, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.

* Sách tham khảo:

3. Đại học Kinh tế Quốc dân, Lịch sử các học thuyết Kinh tế – Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb. Thống kê, 1999

4. Trần Hậu Thư, Vai trò quản lý của Nhà nước theo nền kinh tế thị trường nước ta, NXB chính trị Quốc gia, 1994

5. PGS.TS Lê Quốc Lý (chủ biên), Những vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020, NXB Chính trị Quốc gia, 2013

6. GS.TS Ngô Thắng Lợi – TS. Nguyễn Quỳnh Hoa (đồng chủ biên), Mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam – Thực trạng và định hướng đến năm 2030, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2017

* Bài tạp chí:

7. PGS. TS. Nguyễn Thị Thơm, Đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam sau 8 năm đổi mới mô hình tăng trưởng, Tạp chí Lý luận chính trị, số 10/2019, tr. 26 – 31

8. TS. Nguyễn Thị Miền, Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2011-2018 và giải pháp cho giai đoạn tiếp theo, Tạp chí Lý luận chính trị, số 11/2019, tr.51 - 58

* Website:

9. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng

http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNam/ThongTinTongHop/noidungvankiendaihoidang?categoryId=10000716&articleId=10038382 (truy cập ngày 11/11/2020)

10. Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016 – 2020

http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xii/bao-cao-danh-gia-ket-qua-thuc-hien-nhiem-vu-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-5-nam-2011-2015-va-phuong-huong-1599 (truy cập ngày 11/11/2020)

11. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ngày ngày 10 tháng 4 năm 2006 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010

http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/noidungchinhsachthanhtuu?categoryId=698&articleId=2939 (truy cập ngày 11/11/2020)

12. Chí Hiếu, Thu nhập bình quân người Việt tăng lên 3.000 USD/năm theo cách tính mới

https://thanhnien.vn/thoi-su/thu-nhap-binh-quan-nguoi-viet-tang-len-3000-usdnam-theo-cach-tinh-moi-1111830.html (truy cập ngày 11/11/2020)

13. Nhật Quang, Năng suất lao động của Việt Nam tăng đều qua các năm

https://vietstock.vn/2019/12/nang-suat-lao-dong-cua-viet-nam-tang-deu-qua-cac-nam-761-721835.htm#:~:text=N%C4%83ng%20su%E1%BA%A5t%20lao%20%C4%91%E1%BB%99ng%20c%E1%BB%A7a%20to%C3%A0n%20n%E1%BB%81n%20kinh%20t%E1%BA%BF%20theo,l%C3%A0m%20n%C4%83m%202019%20t%C4%83ng%20cao. (truy cập ngày 14/11/2020)

13. Website của Tổng cục thống kê

https://www.gso.gov.vn/ (truy cập ngày 14/11/2020)

Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU

Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

You Might Also Like

0 nhận xét