Lý luận của Chủ nghĩa xã hội khoa học về đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và biểu hiện của đặc điểm đó ở xã hội Việt Nam hiện nay
tháng 9 27, 2023
MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, mỗi quốc gia dân tộc đều có quyền lựa chọn con đường, sự phát triển cho chính mình sao cho phù hợp với xu thế chung của thời đại, với quy luật khách quan của lịch sử và nhu cầu, khát vọng của dân tộc. Do vậy, Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan hoàn toàn phù hợp với xu thế chung đó. Trên thực tế, Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là quá trình lâu dài và nhiều thách thức, trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội phức tạp, nhiều khó khăn, nhất là bối cảnh thế giới đang chao đảo giữa đại dịch Covid-19 trong một thời gian dài chưa có dấu hiệu khả quan. Do đó, trước thời cơ, và nguy cơ, thách thức đan xen nhau đó, việc tìm hiểu nâng cao nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là việc làm mang tính cấp thiết, có tầm quan trọng đặc biệt đối với nhận thức và hành động của mỗi chúng ta trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy nhóm 3 chúng em xin phép lựa chọn nghiên cứu đề tài số 6: “Lý luận của Chủ nghĩa xã hội khoa học về đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và biểu hiện của đặc điểm đó ở xã hội Việt Nam hiện nay”
Do còn nhiều hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên bài tập của nhóm em khó tránh khỏi những sai sót, rất mong được các thầy cô đóng góp ý kiến để bài làm chúng em được hoàn thiện.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
1. Quan điểm của Chủ nghĩa xã hội khoa học về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa là khoảng thời gian chuyển từ xã hội tư bản chủ nghĩa đến xã hội chủ nghĩa
1.1. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên CNXH
Tính tất yếu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội được lý giải từ các căn cứ sau:
Một là, chủ nghĩa tư bản và xã hội khác nhau về bản chất. Chủ nghĩa tư bản được xây dựng trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất; chế độ áp bức, bóc lột. Chủ nghĩa xã hội xây dựng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; không còn áp bức, bóc lột. Muốn có xã hội như vậy cần phải có một thời kì lịch sử nhất định.
Hai là, quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo tiền đề vật chất-kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội, nhưng muốn cho tiền đề đó phục vụ cho chủ nghĩa xã hội cần có thời gian tổ chức, sắp xếp lại, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát sinh trong lòng tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng, cải tạo xã hội chủ nghĩa và dù
Ba là, ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo tiền đề hình thành quan hệ mới xã hội chủ nghĩa do vậy cũng cần thời gian xây dựng, phát triển.
Bốn là, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công cuộc mới mẻ, khó khăn, cần có thời gian để giai cấp công nhân từng bước làm quen với những công việc đó.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã nêu ra hai kiểu quá độ: quá độ trực tiếp và quá độ gián tiếp từ CNTB lên CNXH.
1.2. Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ lên CNXH
Đặc điểm nổi bật của thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.2.1. Trên lĩnh vực kinh tế: Sự phát triển chưa đồng đều của lực lượng sản xuất trong thời kì này quy định tính tất yếu khách quan trong sự tại nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có thành phần đối lập
1.2.2. Trên lĩnh vực chính trị: bản chất nhất thời của thời kì quá độ là sự quá độ về chính trị, ở đó nhà nước chuyên chính vô sản được thiết lập, củng cố và ngày càng hoàn thiện. Đây là sự thống trị về chính trị của giai cấp công nhân với chức năng thực hiện dân chủ với nhân dân, tổ chức xây dựng và bảo vệ chế độ mới; là tiếp tục cuộc đấu tranh giai cấp giữa vô sản đã chiến thắng nhưng chưa thắng hoàn toàn với giai cấp tư sản thất bại nhưng chưa thất bại hoàn toàn.
1.2.3. Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa: còn tồn tại nhiều loại tư tưởng, văn hóa tinh thần khác nhau, có cả sự đối lập. Bên cạnh nền văn hóa mới, lối sống vừa xây dựng còn tồn tại những tàn tích của nền văn hóa cũ, lối sống cũ, tư tưởng lạc hậu, thậm chí phản động gây cản trở không nhỏ cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của các dân tộc sau khi mới giải phóng.
1.2.4. Trên lĩnh vực xã hội: Trong thời kì này còn có sự khác biệt cơ bản giữa thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi, lao động trí óc và lao động chân tay, vấn đề bình đẳng và công bằng xã hội cần phải được xác lập dần.
1.3. Nội dung của thời kỳ quá độ lên CNXH
1.3.1. Trong lĩnh vực kinh tế:
- Sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất hiện có của xã hội, tuân theo tính tất yếu khách quan của các quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, bảo đảm phục vụ đời sống nhân dân lao động tốt hơn.
- Đối với những nước chưa trải qua quá trình công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa, tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra được cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
1.3.2. Trong lĩnh vực chính trị
- Tiến hành cuộc đấu tranh chống lại những thế lực thù địch, chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
- Tiến hành xây dựng, củng cố nhà nước và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, bảo đảm quyền làm chủ trong hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nhân dân lao động
- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh ngang tầm với các nhiệm vụ của mỗi thời kỳ lịch sử.
1.3.3. Trong lĩnh vực tư tưởng – văn hóa
- Thực hiện tuyên truyền phổ biến những tư tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân trong toàn xã hội
- Từng bước xây dựng văn hóa vô sản, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại
1.3.4. Trong lĩnh vực xã hội
- Khắc phục tệ nạn do xã hội cũ để lại
- Từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội
- Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người theo mục tiêu lý tưởng tự do của người này là điều kiện, tiền đề cho sự tự do của người khác
2. Biểu hiện của những đặc điểm trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay
2.1. Trên lĩnh vực kinh tế
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, về phương diện kinh tế, tất yếu tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có thành phần đối lập. Đề cập tới đặc trưng này, V.I. Lenin cho rằng: “Vậy thì danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có”. Đồng thời, V.I. Lênin đã nêu ra: “Những hình thức cơ bản ấy của nền kinh tế xã hội là: chủ nghĩa tư bản, tiểu sản xuất hàng hóa, chủ nghĩa cộng sản”
Nền kinh tế nhiều thành phần là bước quá độ trung gian tất yếu trong quá trình xây dựng CNXH, không thể dùng ý chí để xóa bỏ nó ngay được. Bởi vì trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều quan hệ sản xuất, bao gồm cả quan hệ sản xuất tàn dư, thống trị và mầm mống nên tất yếu phải có nhiều thành phần kinh tế. Trong điều kiện nền kinh tế quá độ là nền kinh tế nhiều thành phần, V.I. Lênin khẳng định: Không thể quá độ trực tiếp lên CNXH mà phải qua con đường gián tiếp, không thể quá vội vàng, thẳng tuột, không được chuẩn bị.
Ở Việt Nam giai đoạn hiện nay, Đảng ta thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là việc thực hiện tư tưởng kinh tế của V.I. Lênin trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, (được thông qua tại Đại hội XI - năm 2011), Đảng ta xác định: "Nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp". Từ đó, vạch ra định hướng lớn trong phát triển kinh tế của đất nước, đó là: Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta xác định: “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Là nền kinh tế có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực chủ đạo của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật..."
Thực hiện tư tưởng kinh tế của V.I. Lênin vào thời kỳ quá độ, đến nay, nền kinh tế nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn thách thức, tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011-2020 dự kiến đạt khoảng 6,4%/năm; quy mô và tiềm lực được nâng lên (quy mô nền kinh tế đã đạt gần 300 tỷ USD. GDP bình quân đầu người đạt 3.000 USD); cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự phát triển khởi sắc về kinh tế đã góp phần nâng cao đời sống của nhân dân, làm cho con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng sáng rõ hơn.
Mặc dù V.I. Lênin đã đi xa nhưng tư tưởng kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Người vẫn còn nguyên giá trị. Kỷ niệm 150 năm ngày sinh V.I. Lênin (22/4/1870-22/4/2020), việc bảo vệ và tiếp tục vận dụng sáng tạo, bổ sung phát triển những tư tưởng của Người trong điều kiện mới là nhiệm vụ quan trọng đặt ra đối với cách mạng Việt Nam để đi tới thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng thành công CNXH trên đất nước ta.
2.2 Trên lĩnh vực chính trị
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội về phương diện chính trị là việc thiết lập, tăng cường chuyên chính vô sản, mà thực chất của nó là việc giai cấp công nhân nắm và sử dụng quyền lực nhà nước trấn áp giai cấp tư sản, tiến hành xây dựng một xã hội không giai cấp. Đây là sự thống trị về chính trị của giai cấp công nhân với chức năng thực hiện dân chủ đối với nhân dân, tổ chức xây dựng và bảo vệ chế độ mới, chuyên chính với những phần tử thù địch, chống lại nhân dân. Cuộc đấu tranh diễn ra trong điều kiện mới – giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp cầm quyền, với nội dung mới – xây dựng toàn diện xã hội mới, trọng tâm là xây dựng nhà nước có tính kinh tế, và hình thức mới – cơ bản là hòa bình tổ chức xây dựng.
Thứ nhất, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã kiên định giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách là Đảng duy nhất cầm quyền, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng.
Điều 4 Hiến pháp Việt Nam 2013 đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với toàn thể đất nước và nhân dân Việt Nam. Đảng lãnh đạo nhà nước bằng cách đề ra các chủ trương, đường lối về đối nội, đối ngoại để nhà nước thể chế thành pháp luật và tổ chức thực hiện. Đảng bồi dưỡng cán bộ cho nhà nước, giới thiệu Đảng viên và người ngoài đảng đủ năng lực và phẩm chất để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, bố trí vào những vị trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước. Đảng thường xuyên giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, tác phong cho cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước. Đảng chỉ đạo công cuộc cải cách, hoàn thiện bộ máy nhà nước và cuộc đấu tranh chống tiêu cực trong bộ máy nhà nước hiện nay.
Thứ hai, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, công tác bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn.
Tuyên truyền chống phá cách mạng Việt Nam luôn là âm mưu cơ bản, lâu dài của các thế lực thù địch. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, thủ đoạn chống phá ngày càng thâm độc và xảo quyệt. Từ kích động tuần hành, biểu tình, tạo cớ đẩy lên thành bạo loạn; từ thăm dò phản ứng, hiệu quả ứng phó của cơ quan chức năng, chúng có thể tập dượt để đi tới tổng biểu tình đi kèm bạo loạn lật đổ chính quyền, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động đã lợi dụng bối cảnh tổ chức Đại hội Đảng, chuẩn bị tổ chức bầu cử ĐBQH và ĐB HĐND các cấp để xuyên tạc sự lãnh đạo của Đảng, hạ thấp danh dự, uy tín của các cán bộ lãnh đạo, gây tâm lý hoài nghi, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Trong thời gian tổ chức Đại hội XIII của Đảng, công an đã xử lý gần 500 trường hợp đăng tải, chia sẻ thông tin xuyên tạc, sai sự thật, gây hoang mang dư luận, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự; đã gọi hỏi, răn đe trên 1.000 đối tượng tung tin giả mạo.
Trên thực tế, nhiều đối tượng sử dụng các trang mạng xã hội để đăng tải, tuyên truyền nội dung chống phá Đảng và nhà nước đã bị bắt và đưa ra xét xử, như Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy, Lê Hữu Minh Tuấn về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống phá Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam", Trần Đức Thạch về tội "Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân"…
Thứ ba, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam chú trọng phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Quốc hội, với tư cách đại biểu của nhân dân, đang ngày càng có những chuyển biến tích cực, ngày càng dân chủ và hiệu quả. Quốc hội đang ngày càng làm tốt hơn chức năng lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Trong các khóa gần đây, hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn trong các kỳ họp Quốc hội, HĐND thật sự sôi nổi, dân chủ, phát huy được vai trò của đại biểu, được nhân dân ghi nhận. Nhiều phản ánh của cử tri cả nước đã được các cơ quan nhà nước lắng nghe, công tác giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân đã có nhiều tiến bộ.
Thứ tư, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, kiên quyết đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Văn kiện Đại hội XIII đã xác định phải xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Trong đó có một số các lực lượng quân binh chủng tiến lên hiện đại, đã mạnh rồi thì phải mạnh hơn nữa để đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
2.3. Trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay còn tồn tại nhiều tư tưởng khác nhau, chủ yếu là tư tưởng vô sản và tư tưởng tư sản. Giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản từng bước xây dựng văn hóa vô sản, nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, bảo đảm đáp ứng nhu cầu văn hóa- tinh thần ngày càng tăng của nhân dân.
Hiện nay, sự biến đổi trên lĩnh vực tư tưởng trong thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta được biểu hiện rõ ở công tác tư tưởng. Việc hình thành, phát triển hệ tư tưởng XHCN, biến hệ tư tưởng XHCN thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội, cổ vũ mọi người lao động, sáng tạo vì mục tiêu lý tưởng của CNXH ngày càng được đẩy mạnh. Việc truyền bá hệ tư tưởng giai cấp công nhân trong các tầng lớp nhân dân cũng ngày càng nhân rộng. Công tác giáo dục lý luận chính trị tư tưởng không ngừng được nâng cao; thông tin tuyên truyền, đọc báo, nghe đài, các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao ngày càng được chú trọng hơn; cán bộ các cấp được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng, hiệu quả. Cấp ủy đảng các cấp luôn nêu cao trách nhiệm của người đứng đầu trong nghiên cứu, triển khai và tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Trong cơ chế thị trường, một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng năng động, tích cực, thích ứng và phát huy tài năng, trí tuệ vươn lên, vượt qua đói nghèo, chiến thắng lạc hậu. Nhiều tấm gương tiêu biểu có mặt trên khắp mọi miền của Tổ quốc, ở mọi cấp, mọi ngành đã có sức động viên lôi cuốn đông đảo quần chúng vươn lên. Sự ổn định về tư tưởng, chính trị ở cơ sở ngày càng vững chắc.
Về lĩnh vực văn hóa, việc xây dựng văn hóa vô sản, nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại ngày càng được đẩy mạnh. Chính phủ đã ban hành mười chiến lược lớn, trong đó có Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020. Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" được cấp ủy, chính quyền quan tâm đã và đang có sức lan tỏa trong cộng đồng. Xây dựng đạo đức, lối sống con người Việt Nam được xác định là nhiệm vụ đầu tiên, hàng đầu cùng với việc tạo dựng môi trường văn hóa. Những nét mới trong chuẩn mực văn hóa và trong nhân cách con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa từng bước được hình thành, kế thừa những đức tính tốt đẹp truyền thống của dân tộc: cần cù, yêu nước, gắn bó sâu nặng với quê hương, cộng đồng, ham hiểu biết, vừa có trình độ học vấn, năng động, sáng tạo trong cơ chế thị trường. Nhận thức về văn hóa cũng đã có nhiều thay đổi tích cực; mức hưởng thụ các sản phẩm văn hóa được nâng lên đáng kể; các thiết chế văn hóa được đầu tư, góp phần làm giảm sự cách biệt về văn hóa đối với từng vùng miền, từng dân tộc; giữa nông thôn, miền núi và thành thị, huy động được quần chúng nhân dân hưởng ứng và tham gia vào các chiến lược phát triển văn hóa của Đảng và Chính phủ...
Một thành tựu phải kể đến chính là việc triển khai thực hiện công tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa. Nhờ đó, văn nghệ sĩ có điều kiện in ấn, xuất bản, triển lãm, biểu diễn tác phẩm văn học nghệ thuật ngoài nguồn kinh phí hỗ trợ của Nhà nước, với sự tham gia của các thành phần kinh tế, trong đó có vai trò tích cực của tư nhân. Hoạt động nghiên cứu, lý luận phê bình văn hóa nghệ thuật được đẩy mạnh, tham gia hiệu quả vào việc đẩy lùi các khuynh hướng phủ nhận thành tựu của văn nghệ cách mạng, kháng chiến, kiên trì bảo vệ và phát triển đường lối văn hóa nghệ thuật Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh...
2.4. Trên lĩnh vực xã hội
Hiện nay, ở Việt Nam, đặc điểm này được biểu hiện như sau:
Trong suốt thời kỳ quá độ chúng ta đã đạt được những chuyển biến tốt về mặt xã hội. Nhìn chung, đời sống tinh thần, vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện một bước rõ rệt. Những năm gần đây có hàng triệu lao động được giải quyết việc làm. Cùng với đời sống vật chất thì đời sống tinh thần cũng được nâng lên đáng kể. Trình độ dân trí được nâng lên đáng kể, đời sống văn hóa của nhân dân được cải thiện. Hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng trở nên rộng khắp. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, công tác kế hoạch hóa gia đình và nhiều hoạt động xã hội khác đều có mặt phát triển và tiến bộ.
Hệ thống y tế, giáo dục cũng phát triển. Mạng lưới y tế phát triển rộng khắp, luôn kịp thời chăm lo cho sức khỏe của nhân dân. Giáo dục ở Việt Nam luôn được coi là quốc sách hàng đầu. Đảng và Nhà nước luôn có những chính sách hỗ trợ và đầu tư cho phát triển giáo dục như đầu tư cơ sở hạ tầng, trợ cấp cho học sinh, sinh viên...
Tính năng động, sáng tạo của người dân được phát huy, người lao động ngày càng chủ động hơn trong việc tìm kiếm việc làm, tăng thu nhập, tham gia ý kiến đóng góp vào sinh hoạt chung của cộng đồng, xã hội...
Tuy nhiên, như Lê nin đã từng nói, thời kỳ quá độ “tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội là sự đan xen giữa cái mới và cái cũ”. Chính vì vậy, bên cạnh những “cái mới” đang ngày càng phát triển, thì những “cái cũ” vẫn luôn tồn tại. Nó được biểu hiện bằng các hạn chế, những khuyết điểm cần được sửa đổi. Ví dụ như chất lượng giáo dục, y tế ở nhiều nơi vẫn còn rất thấp. Các hủ tục lạc hậu vẫn còn kéo dài ở vùng dân tộc thiểu số, nông thôn. Trẻ em không được đến trường, người nghèo không đủ tiền chữa bệnh, trật tự xã hội không an toàn, các tệ nạn xã hội vẫn một ngày phát triển.. Từ những hạn chế này đặt ra các yêu cầu cấp thiết cho Đảng và Nhà nước trong việc đưa ra các chính sách, biện pháp để xã hội ngày một phát triển hơn nữa.
KẾT LUẬN
Lý luận về hình thái kinh tế- xã hội của C.Mác cho thấy sự biến đổi của các xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên. Vận dụng lý luận đó vào phân tích xã hội tư bản, tìm ra các quy luật vận động của nó, C.Mác và Ph. Ăngghen đều cho rằng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa có tính chất lịch sử và xã hội tư bản tất yếu bị thay thế bằng xã hội mới- xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Sau khi nghiên cứu, nhóm đã hiểu rõ hơn về quan điểm, bản chất của quá trình tiến lên CNXH mà Mác-Lênin đã trình bày, đồng thời cũng hiểu sâu sắc và hoàn toàn tin tưởng vào con đường tiến lên CNXH ở Việt Nam. Từ nhận thức một cách đúng đắn, triệt để và nhất quán về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam sẽ giúp cho mỗi chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về những thuận lợi, khó khăn; những thời cơ, vận hội; nguy cơ và thách thức đan xen nhau để từ đó với quyết tâm chính trị cao chúng ta phải phấn đấu vượt qua, tránh được căn bệnh chủ quan, nóng vội, duy ý chí; trong nhận thức phải xuất phát từ thực tế khách quan tôn trọng và hành động theo quy luật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Chủ nghĩa Xã hội khoa học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2019
2. Đào Văn Mạc (2021), “Đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ an ninh tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí công sản, truy cập lần cuối ngày 24/04/2021, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/821517/dau-tranh-chong-cac-quan-diem-sai-trai%2C-thu-dich%2C-bao-ve-an-ninh-tu-tuong-cua-dang-trong-giai-doan-hien-nay.aspx
3. TS. Lưu Duy Toàn (2018), “Phương thức, thủ đoạn mới của “diễn biến hòa bình”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, truy cập lần cuối ngày 24/04/2021, http://tapchiqptd.vn/vi/phong-chong-dbhb-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa/phuong-thuc-thu-doan-moi-cua-dien-bien-hoa-binh/13045.html
Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU
Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395
.png)
0 nhận xét