Thị trường độc quyền nhóm – Lý luận và thực tiễn ở Việt Nam

tháng 9 17, 2023



A. MỞ ĐẦU

Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt đứng trước thời kì mở cửa, tính chất độc quyền và cạnh tranh trên thị trường đang là vấn đề rất được quan tâm. Nhiều lĩnh vực kinh tế của nước ta đang có xu hướng trở thành những thị trường mang tính chất cạnh tranh hoàn toàn, hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều lĩnh vực kinh tế mang tính chất độc quyền.

Tuy nhiên, vẫn còn một số lĩnh vực, vấn đề này có tính chất phức tạp hơn: đan xen giữa độc quyền và cạnh tranh.... Những thị trường này được gọi là thị trường độc quyền nhóm. Vấn đề này cần phải được nghiên cứu kĩ và có các định hướng nhất định cho quá trình phát triển. Từ đó có thể mang lại lợi ích cho cả doanh nghiệp và người tiêu dùng, thúc đẩy nền kinh tế phát trển.

Vì thế, sau đây em xin trình bày đề tài: “Thị trường độc quyền nhóm – Lý luận và thực tiễn ở Việt Nam”.

B. NỘI DUNG

I. Cơ sở lý thuyết

1. Khái niệm

Độc quyền nhóm hay còn gọi là độc quyền tập đoàn là một cấu trúc thị trường mà trong đó có một số lượng nhỏ các doanh nghiệp mà không doanh nghiệp nào trong số đó có thể loại bỏ ảnh hưởng đáng kể của các doanh nghiệp khác.

Độc quyền nhóm bao gồm hai công ty trở lên. Không có giới hạn chính xác cho số lượng doanh nghiệp trong một nhóm độc quyền, nhưng con số này phải đủ thấp để các hành động của một công ty có thể gây ảnh hưởng đáng kể lên các công ty khác.

Tuy không phải là một doanh nghiệp duy nhất độc chiếm thị trường nhưng doanh nghiệp độc quyền nhóm thường có quy mô tương đối lớn so với quy mô chung của thị trường. Điều này cho phép nó có một quyền lực thị trường hay khả năng chi phối giá đáng kể.

Sản phẩm của các doanh nghiệp trên thị trường độc quyền nhóm có thể giống hệt hoặc gần như giống hệt nhau (những sản phẩm được tiêu chuẩn hóa như thép, hóa chất…), song cũng có thể khác biệt nhau (như ô tô, máy tính, dịch vụ hàng không…). Tính đồng nhất hay khác biệt của sản phẩm không phải là những tính chất đặc thù của thị trường này.

Các điều kiện cho phép tồn tại độc quyền bao gồm chi phí vốn đầu vào cao, các đặc quyền pháp lí và một nền tảng gây dựng được giá trị với nhiều khách hàng hơn.

2. Đặc trưng

Đặc trưng cơ bản của một ngành độc quyền nhóm là sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp. Mỗi khi ra quyết định về sản lượng, giá cả hay các quyết định kinh doanh có liên quan khác, mỗi doanh nghiệp đều phải cân nhắc xem quyết định của mình có ảnh hưởng gì đến quyết định của các đối thủ, khiến cho các đối thủ phản ứng như thế nào. Trong trường hợp này, việc luôn luôn phải tính đến hành vi của các đối thủ làm cho quá trình ra quyết định của các doanh nghiệp trở nên khó khăn và phụ thuộc vào nhau.

Khi những người quản lý của doanh nghiệp đánh giá kết quả tiềm năng của các quyết định của mình, họ phải giả định rằng các đối thủ cũng là những người hợp lý và thông minh như họ. Họ phải đặt mình vào vị trí của các đối thủ và cân nhắc xem sẽ phản ứng như thế nào.

3. Cân bằng trong thị trường độc quyền nhóm

Trong thị trường độc quyền nhóm, với mỗi sự biến đổi nhỏ, mỗi doanh nghiệp sẽ muốn làm điều tốt nhất mình có thể và giả định rằng các đối thủ của mình cũng làm cái mà doanh nghiệp đang làm. Như vậy, mỗi doanh nghiệp sẽ làm điều tốt nhất mà mình có thể, có tính đến các đối thủ và giả định rằng các đối thủ của mình cũng đang làm như thế.

Cân bằng trong thị trường độc quyền nhóm là cân bằng Nash. Trong cân bằng Nash, mỗi doanh nghiệp đang làm điều tốt nhất mình có thể khi biết đối thủ làm gì. Cân bằng Nash là một cân bằng không hợp tác – mỗi doanh nghiệp ra quyết định sao cho thu được lợi nhuận cao nhất, khi biết hành động của các doanh nghiệp đối thủ. Khi không hợp tác hành động, lẽ ra lợi nhuận mỗi doanh nghiệp thu được cao hơn lợi nhuận thu được trong cạnh tranh hoàn hảo, nhưng lại thấp hơn lợi nhuận nếu các doanh nghiệp cấu kết với nhau.

4. Lý thuyết trò chơi và việc giải thích hành vi của doanh nghiệp độc quyền nhóm

Lý thuyết trò chơi nghiên cứu hành vi của con người trong các tình huống mà trong đó các quyết định hành động của họ có tính chất phụ thuộc lẫn nhau. Khi ra quyết định, mỗi người đều phải tính đến phản ứng của người khác đối với hành động của mình.

Phụ lục 1: Tình thế tiến thoái lưỡng nan của người tù

 

Người tù B

Thú tội

Không thú tội

Người tù A

Thú tội

-5

-5

-1

-10

Không thú tội

-10

-1

-2

-2

Thế tiến thoái lưỡng nan của người tù là một ví dụ kinh điển của lý thuyết trò chơi, minh họa vấn đề mà các doanh nghiệp độc quyền nhóm gặp phải. Tình thế này như sau: hai người tù bị xử về tội hợp tác với nhau trong một hành động phạm tội. Họ bị tách riêng ra để hỏi cung trong các phòng khác nhau và không thể thông tin cho nhau được. Nếu cả hai cùng thú tội thì mỗi người sẽ bị tù 5 năm, nếu không ai thú tội thì khó kết án, như vậy những người tù đều hy vọng cùng thỏa thuận để nhận án tù 2 năm. Mặt khác, nếu một người thú tội và người kia không thú tội thì người thú tôi sẽ bị tù 1 năm, còn người kia sẽ bị tù 10 năm. Như vậy cả hai sẽ cùng thú tội.

Qua ví dụ trên, ta thấy các doanh nghiệp độc quyền nhóm rất khó thỏa thuận được với nhau để hành động như một nhà độc quyền. Bằng cách cấu kết với nhau, các doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận độc quyền; nhưng mỗi doanh nghiệp đều có động cơ để vi phạm các thỏa thuận nhằm thu lợi cho riêng mình. Sự lừa gạt hay cạnh tranh với nhau đều đẩy các bên tham gia vào tình thế bất lợi.

5. Các mô hình độc quyền nhóm

5.1. Mô hình độc quyền tập đoàn không cấu kết

a) Mô hình Cournot

Mô hình cạnh tranh Cournot là một mô hình kinh tế mô tả một cấu trúc một ngành mà các công ty đối thủ cung cấp một loại sản phẩm giống hệt nhau, cạnh tranh nhau về số lượng sản phẩm sản xuất, một cách độc lập và đồng thời.

Các doanh nghiệp trong thị trường độc quyền nhóm thường cạnh tranh bằng cách tìm cách đánh cắp thị phần của nhau. Một cách để thực hiện điều này là thay đổi số lượng hàng hóa được bán. Theo quy luật cung cầu, sản lượng cao hơn khiến giá giảm, còn sản lượng thấp hơn khiến giá tăng. Do đó, các doanh nghiệp phải xem xét số lượng mà một đối thủ cạnh tranh có khả năng tung ra để có cơ hội tối đa hóa lợi nhuận tốt hơn.

Mô hình này có một ưu điểm lớn là cho ra kết quả hợp với giá cả và số lượng nằm giữa mức độc quyền và mức cạnh tranh. Mô hình cũng mang lại trạng thái cân bằng Nash ổn định. Tuy nhiên một số giả định của mô hình hơi phi thực tế trong thế giới thực.

b) Mô hình Stackelberg – Lợi thế đi trước

Mô hình Stackelberg là mô hình cạnh tranh mà trong đó doanh nghiệp chiếm ưu thế trên thị trường đặt sản lượng đầu tiên và sau đó, các doanh nghiệp phía sau tối ưu hóa sản lượng và giá của họ. Lợi thế của người đi trước nghĩa là người chơi mà đi trước sẽ thu được tiền cược nhiều hơn so với khi ra quyết định đồng thời.

Giả sử trong thị trường có hai hãng A và B và sản lượng của hãng A là cố định. Trong mô hình này, hãng B có thể quan sát sản lượng đã được cố định bởi hãng A. Vì thế khi lựa chọn sản lượng, hãng A phải dự đoán phản ứng tiếp theo của hãng B. Hãng B sản xuất ít hơn do hãng phải phản ứng với thực tế là một mức sản lượng QA cao hơn đã được tạo ra. Cuối cùng hãng A có sản lượng cao hơn, lợi nhuận lớn hơn so với mô hình Cournot nhưng hãng B lại có sản lượng nhỏ hơn và lợi nhuận thấp hơn.

c) Mô hình đường cầu gãy và tính cứng nhắc về giá

Theo mô hình đường cầu gãy, đường cầu của hãng độc quyền nhóm là một đường gẫy khúc (điểm A). Khi một hãng giảm giá, hãng sẽ cho rằng đối thủ cạnh tranh cũng sẽ giảm giá theo, do đó mặc dù cầu trên thị trường tăng nhưng thị phần của các hãng có thể vẫn không đổi. Tuy nhiên, khi hãng tăng giá, đối thủ có thể sẽ không có hành vi tương tự và hãng sẽ mất đi một lượng khách đáng kể của mình chuyển sang mua sản phẩm của hãng khác. Do đó, khi giá tăng cao hơn P0 (tương ứng điểm gãy khúc) thì đường cầu sẽ thoải hơn đoạn cầu ở dưới.

Trong hình, Q0 là sản lượng tối ưu cho không chỉ ở mức chi phí MC1 mà cả MC2 hoặc MC bất kỳ nằm trong khoảng gián đoạn của đường doanh thu cận biên, và khi đó mức giá “cứng nhắc” tại P0. Mức giá kém linh hoạt này được giải thích bởi hãng không thể hạ giá mà không bị trả đũa và cũng không thể nâng giá mà không bị tổn thất về thị phần.

5.2. Mô hình cấu kết và chỉ đạo

a) Mô hình Cartel

Cartel là hình thức các hãng công khai cấu kết để xác lập giá bán và sản lượng. Trong mô hình cartel, các hãng cấu kết thành một khối mà hành động như một nhà độc quyền. Không nhất thiết tất cả các hãng trên thị trường tham gia vào cartel và trên thực tế, cartel cũng chỉ bao gồm một bộ phận hãng trên thị trường. Với đủ số hãng tham gia và cầu thị trường là không co giãn thì cartel có thể đưa ra mức giá cao hơn mức giá trong trường hợp thị trường cạnh tranh.

Việc cấu kết công khai thường là bất hợp pháp ở các quốc gia. Tuy nhiên cấu kết trên phạm vi quốc tế có thể không bị ngăn cấm (ví dụ một số tổ chức quốc tế hoạt động giống cartel như OPEC – tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ).

b) Mô hình chỉ đạo giá

Một dạng độc quyền nhóm cấu kết nữa là mô hình chỉ đạo giá, trong đó, một hãng thiết lập giá và các hãng còn lại theo sau bởi điều đó có lợi cho họ hoặc họ muốn tránh việc không chắc chắn về phản ứng của các đối thủ cạnh tranh. Những hành vi này phổ biến trong thực tế kinh doanh hơn hành vi trong mô hình cartel.

Phát tín hiệu giá là một hình thức của cấu kết ngầm. Một hãng thông báo tăng giá trên các phương tiện công cộng và hy vọng các đối thủ nắm bắt tín hiệu này và cũng tăng giá.

Giả định rằng có một hãng lớn chiếm phần lớn thị phần và có một vài hãng nhỏ hơn, trong đó mỗi hãng chỉ chiếm thị phần nhỏ và cung ứng phần còn lại của thị trường. Hãng lớn sẽ hành động như một hãng trội, và đưa ra mức giá tối đa hóa lợi nhuận. Các hãng khác do quá ít ảnh hưởng đến thị trường nên hành động như những hãng cạnh tranh hoàn hảo và chấp nhận mức giá mà hãng trội đưa ra.

II. Thực tiễn độc quyền nhóm tại Việt Nam

1. Thực trạng, nguyên nhân, ưu điểm và hạn chế

Theo khoản 2 điều 24 Luật Cạnh tranh 2018, độc quyền nhóm được quy định như sau:

Nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu cùng hành động gây tác động hạn chế cạnh tranh và có sức mạnh thị trường đáng kể được xác định theo quy định tại Điều 26 của Luật này hoặc có tổng thị phần thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan;

b) Ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên trên thị trường liên quan;

c) Bốn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên trên thị trường liên quan;

d) Năm doanh nghiệp trở lên có tổng thị phần từ 85% trở lên trên thị trường liên quan.

Theo như quy định trên thì hiện nay, ở Việt Nam, độc quyền nhóm tồn tại trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Sau đây em xin phân tích một số thị trường cụ thể.

a) Thị trường mạng viễn thông di động


Tại Việt Nam, hiện có 6 đơn vị kinh doanh dịch vụ mạng viễn thông di động gồm Viettel, Vinaphone, MobiFone, Indochina Telecom, Vietnamobile và Gmobile. Tuy nhiên, đa số thị phần thuộc sở hữu của 3 nhà mạng lớn nhất gồm Viettel, Vinaphone, MobiFone, với tỷ lệ 95%.

Nguyên nhân dẫn đến độc quyền nhóm trong lĩnh vực mạng viễn thông di động là do chi phí đầu vào cao, các nhà mạng cần phải xây dựng các cột thu phát sóng trên quy mô lớn, việc này đòi hỏi cần có một tiềm lực tài chính đủ mạnh; hơn nữa, các thủ tục pháp lý, điều kiện kinh doanh ngành nghề này cũng không hề dễ dàng.

Vào năm 1993, thị trường dịch vụ di động Việt Nam chỉ có nhà cung cấp duy nhất là MobiFone, chi phí sử dụng điện thoại di động ở Việt Nam rất cao. Giá cước thuê bao di động trả sau là 8.000 đồng/phút, phí thuê bao hàng tháng là 20 USD. 

Cho tới đầu thập niên 2000, thị trường di động Việt Nam vẫn chỉ gồm hai công ty cung cấp dịch vụ di động là Mobifone và Vinaphone đều thuộc tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) nên trong suốt gần 10 năm (1993-2003), giá cước chỉ giảm nhẹ đôi chút so với 1993. 

Năm 2003, nhà cung cấp dịch vụ di động đầu tiên không thuộc VNPT là S-Fone ra đời với công nghệ mới, hiện đại, tính năng vượt trội và giá cước thấp. Với sự ra đời của S-Fone, MobiFone và Vinaphone cũng giảm giá cước và chuẩn bị nâng cấp lên 2,5G.

Tuy nhiên phải đến gần cuối năm 2004, khi Viettel bắt đầu gia nhập thị trường thì sự đột phá mới thực sự diễn ra. Khi chính thức ra đời vào tháng 8/2004, với độ phủ sóng rộng 52 tỉnh rồi mở rộng ngay ra phạm vi toàn quốc trong 6 tháng, và mức cước thấp hơn khoảng 30% so với Mobifone và Vinaphone, đồng thời áp dụng phương pháp tính cước đột phá theo block 6 giây, chỉ sau 5 tháng, Viettel đã nhanh chóng thu hút được hơn 150.000 thuê bao. Dưới áp lực của Viettel và S-Fone, Mobifone và Vinaphone đã phải giảm giá cước. Sự ra đời của Viettel đã bắt đầu cuộc đua khuyến mãi cho các thuê bao hòa mạng mới với nhiều hình thức khác nhau: giảm chi phí hòa mạng, tặng cước thuê bao dịch vụ cho thuê bao trả sau, tặng cước thẻ nạp cho thuê bao trả trước, hỗ trợ tiền mua điện thoại hay tặng máy khi đăng kí dịch vụ. Các cuộc chạy đua khuyến mãi hòa mạng đã dẫn đến tình trạng thuê bao ảo mở rộng trên các mạng, thậm chí có lúc 50% số thuê bao mới phát sinh là thuê bao ảo. Năm 2018, Bộ thông tin và truyền thông đã ban hành thông tư quy định mức khuyến mãi tối đa là 20% đối với thuê bao trả trước, tránh các nhà mạng liên tục đưa ra các mức khuyến mãi “khủng” 100%, 50% để cạnh tranh không lành mạnh.

Ngoài cuộc cạnh tranh khuyến mãi, cuộc cạnh tranh giảm giá cước và dịch vụ diễn ra cũng khá quyết liệt, tạo nên một mặt bằng chung khá tương đồng giữa ba nhà mạng lớn. Sau gần 5 năm dẫn trước về giá cước, vào năm 2009 và 2010 khi Viettel tiến hành giảm giá cước thì sau đó vài ngày, cả Mobifone và Vinaphone đều giảm giá cước nhiều hơn Viettel 10 đồng/phút . Từ năm 2010 đến nay, các nhà mạng đã dừng không giảm giá nữa do mức doanh thu bình quân trên một thuê bao đã giảm xuống mức ngang với khu vực và số lượng thuê bao cũng dần bão hòa. 

Ưu điểm của việc cạnh tranh giữa các hãng viễn thông:

Việc ra đời của Viettel và sự cạnh tranh giữa các hãng viễn thông di động đã giúp cho giá cước di động giảm xuống, nhiều người dân ở khắp mọi miền tổ quốc đã có cơ hội tiếp cận với điện thoại di động, điều mà chỉ có giới nhà giàu mới có thể khi thị trường còn độc quyền hoàn toàn.

Viêc cạnh tranh giữa các hãng viễn thông đã giúp cho nền viễn thông Việt Nam phát triển nhanh và bùng nổ, luôn thuộc top tăng trưởng nhanh của châu Á và thế giới trong nhiều năm qua.

Hạn chế của việc cạnh tranh giữa các hãng viễn thông:

Các hãng viễn thông chỉ chú trọng giảm giá cước và tăng các dịch vụ khuyến mãi mà không nâng cao chất lượng hạ tầng khiến cho khoảng trước năm 2010 thường xuyên xảy ra trường hợp nghẽn mạng. Cũng trong khoảng thời gian ấy, các hãng cạnh tranh với nhau không lành mạnh, ví dụ như các thuê bao Viettel khó có thể kết nối với thuê bao Mobifone.

Việc các nhà mạng thi nhau khuyến mãi đã khiến cho tâm lý người dùng chỉ trông chờ vào khuyến mãi, hết khuyến mãi thì không dùng. Việc khuyến mãi cho các thuê bao mới cũng làm gia tăng tình trạng sim ảo, sim rác khó kiểm soát.

Các nhà mạng lớn thường xuyên giảm giá cước và khuyến mãi lớn khiến cho các nhà mạng nhỏ nắm ít thị phần không thể trụ đươc và phải đóng cửa.

b) Thị trường hàng không nội địa Việt Nam



Thị trường hàng không nội địa Việt Nam hiện nay đang có 5 hãng hàng không tham gia khai thác: Vietnam Airline, Vietjet Air, Jetstar Pacific, Bamboo Airways và VASCO; trong đó Vietnam Airline (VNA) nắm giữ 70% cổ phần của Jetstar Pacific và 100% cổ phần của VASCO. Vietnam Airline và Vietjet Air đang là hai hãng hàng không lớn nhất Việt Nam, nắm giữ 80% thị phần hàng không nội địa Việt Nam.

Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng độc quyền nhóm trong thị trường hàng không là do vận tải hàng không là hoạt động có liên quan đến an ninh quốc gia, vì vậy điều kiện cấp phép bay vô cùng khó khăn. Thứ hai, muốn gia nhập thị hàng không, hãng cần có tiềm lực tài chính đủ mạnh để trang bị đội tàu bay cũng như đào tạo nhân viên.

Trước năm 1991, hàng không Việt Nam chỉ có một hãng duy nhất là VNA. Đây là thị trường độc quyền hoàn toàn; do vậy, tất cả quyền hạn, quyền lợi đều nằm trong tay một hãng duy nhất. Trên thực tế, ngoài VNA còn có VASCO nhưng hãng này cũng là một đơn vị trực thuộc VNA nên ở thời điểm đó, Nhà nước hoàn toàn nắm thế độc quyền trong ngành hàng không.

Năm 1991, Pacific Airline (PA) gia nhập thị trường với khẩu hiệu “Giá rẻ hàng ngày, mọi người cùng bay”. Song, vai trò của hãng này không mấy nổi bật, họ khai sinh ra dịch vụ hàng không giá rẻ ở Việt Nam nhưng không tạo lập được thị trường hàng không giá rẻ bởi vì năng lực vận hành của hãng – vốn rất nhỏ so với VNA và càng nhỏ so với nhu cầu của thị trường. Hơn nữa, Jestar Pacific Airline (JPA) lại bị chi phối bởi VNA nắm giữ 70% cổ phần. 

Thị trường hàng không giá rẻ chỉ thực sự bắt đầu vận hành đúng nghĩa bắt đầu từ năm 2011, khi Vietjet Air chính thức hoạt động. Khác với Jetstar, Vietjet hội tụ đầy đủ nhân tài, vật lực và cả một chiến lược “giá rẻ” rõ ràng. Vietjet đã tạo ra một doanh nghiệp vững chắc bằng chiến lược giá rẻ: đưa nhiều ghế hơn lên máy bay, tối ưu hóa các nguồn lực và năng suất lao động của nhân viên và duy trì chi phí vận hành thấp. Vietjet cắt giảm dịch vụ ăn uống, không đưa phí bữa ăn vào tiền vé mà chỉ phục vụ hành khác nếu cần, vừa giảm được tiền vé, vừa phục vụ đúng những hành khách có nhu cần, tránh lãng phí. Vietjet cũng cắt giảm các dịch vụ giải trí, tối thiểu thiết bị chọn thêm trên máy bay; đồng thời vận dụng khoa học công nghệ, trang bị các thiết bị làm thủ tục tự động tại sân bay để cắt giảm chi phí. Vietjet hiện chỉ khai thác dòng tàu bay A320 và A321 tiết kiệm tối đa chi phí xăng, đồng thời chuyên phục vụ tuyến bay ngắn, giúp quay vòng nhiều chuyến.

Vietjet tập trung vào phân khúc khách hàng trẻ trung, năng động và những đối tượng đi máy bay lần đầu, những đối tượng có thu nhập tầm trung, có sở thích khám phá, đi du lịch thường xuyên với chi phí phù hợp… Với khẩu hiệu “Bay là thích ngay”, Vietjet đã tung ra nhiều chương trình khuyến mãi giảm giá vé, chương trình đấu giá ngược, các chuyến bay với giá 0đ với dịch vụ khá tốt, đội ngũ tiếp viên trẻ trung, năng động. 

Người tiêu dùng từng “biết ơn” Viettel thế nào trên thị trường dịch vụ viễn thông thì họ cũng biết ơn Vietjet nhường ấy trên thị trường hàng không dân dụng. Nếu như Viettel đã phổ cập điện thoại di động tới người nông dân thì Vietjet cũng mang giấc mơ bay đến gần hơn với họ. Năm 2012, Vietjet chỉ nắm 8% thị phần, tuy nhiên, sang năm 2013, Vietjet đã nâng thị phần trong thị trường hàng không nội địa lên 20,2% và nhanh chóng tiệm cận thị phần của VNA vào năm 2017. Năm 2018, Vietjet chính thức vượt VNA. 



Bên cạnh hai ông lớn là VNA và Vietjet, giai đoạn 2012-2018, Jetstar vẫn duy trì thị phần hơn 10%. Và sau nhiều năm báo lỗ liên tục, đến 2018, hãng bay này đã “ăn nên làm ra” với doanh thu cả năm đạt 8980 tỉ đồng. 

Trong khi đó, mới ra mắt chưa đầy 1 năm (từ tháng 1/2019), Bamboo Airways đã có 4,2% thị phần và chủ yếu nhắm đến nhóm khách hàng trung gian giữa VNA và Vietjet.

Ưu điểm của việc cạnh tranh giữa các hãng hàng không:

Trong khoảng 10 năm qua (2008-2018), ngành Hàng không Việt Nam đã có những bước tăng trưởng vượt bậc. Năm 2008, Việt Nam mới chỉ có 60 máy bay, thì đến nay đã tăng gấp hơn 3 lần, lên 192 chiếc. Trước đây đội bay chủ yếu chỉ có Vietnam Airlines, còn hiện nay có sự tham gia của nhiều doanh nghiệp tư nhân như Vietjet, Bamboo Airways... Mạng đường bay của hàng không Việt Nam cũng có nhiều chuyển biến sau 10 năm với gần 60 đường bay nội địa và 130 đường bay quốc tế so với 25 đường bay nội địa và 54 đường bay quốc tế vào năm 2008. Các tổ chức quốc tế cũng đánh giá hàng không Việt Nam thuộc diện tăng trưởng nhanh nhất thế giới, với tốc độ tăng trưởng luôn đạt mức 2 con số (khoảng 29%).

Sự tăng lên về số lượng các hãng hàng không đồng thời sự gia tăng cạnh tranh giữa các hãng đã giúp ngành hàng không nước ta tăng trưởng một cách vô cùng ấn tượng, đồng thời đáp ứng nhu cầu đi lại đang tăng cao của người dân. Hành khách có cơ hội sử dụng phương tiện vận chuyển hàng không với mức giá hợp lý, phù hợp với nhu cầu và khả năng thanh toán của từng phân khúc.

Hạn chế của việc cạnh tranh giữa các hãng hàng không:

Việc ra đời của các hãng hàng không giá rẻ đã khiến cho khả năng tiếp cận của người dân đối với phương tiện di chuyển bằng máy bay trở nên dễ dàng hơn, điều này khiến cho lượng hành khách gia tăng nhanh chóng, gây quá tải lên hệ thống hạ tầng. Minh chứng cho điều này chính là sân bay Tân Sơn Nhất. Sân bay này không chỉ quá tải về giao thông kết nối, nhà ga, sân đỗ mà ngay cả đường cất hạ cánh cũng quá tải. Có những chuyến bay phải bay lòng vòng trên trời cả tiếng đồng hồ để chờ hạ cánh. Tình trạng trễ chuyến, hủy chuyến còn cao.

Tiếp theo là về vấn đề con người. Các hãng hàng không có thể huy đồng được các nguồn vốn để thành lập một hãng hàng không, ký hợp đồng mua tàu bay lớn nhưng con người là vấn đề phải quan tâm. Có phương tiện nhưng phải có người vận hành đảm bảo an toàn tuyệt đối. Ngành hàng không Việt Nam đang thiếu nguồn nhân lực trầm trọng, đặc biệt là phi công. Tổng giám đốc VNA Dương Trí Thành cho biết từ khi thị trường có sự tham gia của nhiều hãng, VNA đã bị mất 30% đội bay do vấn đề “chảy máu chất xám khi các hãng khác đưa ra mức lương hấp hẫn hơn nhằm lôi kéo.

Thị trường độc quyền nhóm cũng khiến cho việc cạnh tranh giữa các hãng không lành mạnh. Sự chèn ép của các ông lớn khiến cho nhiều hãng hàng không như Indochina Airlines và Air Mekong đã phải ngừng hoạt động. Những hãng hàng không đi sau sẽ khó cạnh tranh với những hãng hàng không trước vì những hãng đi trước đã khấu hao tài sản khá lâu rồi, chi phí trung bình đã giảm. Những hãng mới vào sẽ có chi phí cao, giá vé phải đặt ở mức cao hoặc phải có một nguồn lực đủ mạnh để bù vào nhắm chống chịu được giai đoạn đầu. Hàng không là ngành đòi hỏi chi phí cố định lớn. Trong khi đó, một vài hãng hàng không ở Việt Nam đã nắm được thị phần lớn. Vì vậy, chí phí cố định bình quân sẽ thấp hơn những hãng mới gia nhập thị trường hoặc có thị phần nhỏ.

c) Một số thị trường độc quyền nhóm khác tại Việt Nam

Một thị trường độc quyền nhóm khác đó là thị trường phân phối xăng dầu Việt Nam với sự tham gia của số ít ông lớn như Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (48% thị phần), Tổng công ty Dầu Việt Nam (19%), Tổng Công ty thương mại xuất nhập khẩu Thanh Lễ (8%), Saigon Petro (7%).

Thị trường sữa nước tại Việt Nam cũng là một thị trường độc quyền nhóm, với các hãng Vinamilk (55%), TH Milk (11%), FCV (7%), Mộc Châu (6%) .

Mặc dù trên thị trường có vô vàn các loại bột giặt khác nhau nhưng thực chất thị trường bột giặt là một thị trường độc quyền nhóm với các nhãn hiệu chủ yếu thuộc về hai tập đoàn hàng tiêu dùng lớn là Unilever chiếm 65% thị trường với 3 nhãn hiệu bột giặt là Ôm, Viso và Surf; P&G chiếm khoảng 23% thị phần với bột giặt Tide và Ariel. Hơn 30 doanh nghiệp sản xuất bột giặt của Việt Nam với các sản phẩm: Lix, Daso, Mỹ Hảo, Net, Vì Dân… và nhiều sản phẩm nhập ngoại chia nhau 12% thị phần còn lại.

2. Một số giải pháp đề ra

a) Về phía nhà nước

Khi các doanh nghiệp độc quyền nhóm cạnh tranh với nhau bằng các chính sách về giá, chất lượng dịch vụ, chăm sóc khách hàng… thì người được lợi chính là khách hàng. Khách hàng khi đó sẽ mua được hàng hóa, dịch vụ với một giá cả phải chăng, đồng thời được chăm sóc một cách tận tình. Còn khi các doanh nghiệp cấu kết với nhau tạo thành thế độc quyền, giá của sản phẩm sẽ bị đẩy lên cao, người chịu thiệt sẽ chính là người tiêu dùng. Vì thế nhà nước cần có những biện pháp thích hợp để ngăn chặn các doanh nghiệp cấu kết với nhau, đảm bảo cho quyền và lợi ích của người tiêu dùng.

Luật Cạnh tranh 2018 có hiệu lực từ 1/7/2019 đã tạo ra một khuôn khổ pháp lý cần thiết cho việc chống độc quyền và giám sát các liên minh trong kinh doanh, bảo vệ người tiêu dùng. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi, việc kiểm soát chống độc quyền và hình thành các liên minh nhằm cản trở cạnh tranh tự do đòi hỏi năng lực chuyên môn đặc biệt của lực lượng cán bộ thừa hành cũng như các thẩm quyền pháp lý đặc thù.

Nhà nước cần trao quyền cho các bên hưởng lợi cũng như bị hại, bao gồm doanh nghiệp và người tiêu dùng, cho phép họ được khởi kiện tư pháp đối với hành vi chống cạnh tranh tự do và lành mạnh. 

Sau cùng, nhà nước cần có một khuôn khổ chính sách cạnh tranh toàn diện, mở cửa thị trường cho doanh nghiêp gia nhập và cạnh tranh, đồng thời tăng cường hiệu lực thưc thi chính sách cạnh tranh. Bên cạnh đó, cũng cần tăng cường và giao quyền tự chủ lớn hơn cho Cục quản lý Cạnh tranh (VCA).

b) Về phía doanh nghiệp

Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, cạnh tranh là phương pháp sinh tồn của mỗi doanh nghiệp và của cả nền kinh tế. Cạnh tranh có vai trò rất quan trọng và là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Nó buộc người sản xuất phải đổi mới để trở nên năng động, nhạy bén, tích cực nâng cao tay nghề, cải thiện kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh tế. Ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì thị trường trì trệ kém phát triển.

Các doanh nghiệp cần phải nghiêm chỉnh chấp hành luật Cạnh tranh 2018 đã được Quốc hội ban hành. Muốn nâng cao lợi nhuận, các doanh nghiệp phải tìm cách nâng cao chất lượng dịch vụ sản phẩm, nâng cao năng suất lao động, tối ưu hóa hiệu quả kinh tế. Các doanh nghiệp cần giữ chân khách hàng bằng chất lượng dịch vụ tốt nhất chứ không phải tiêu diệt đối thủ để tạo lập thế độc quyền trên thị trường.

Để có thể cùng nhau phát triển, các doanh nghiệp cần phải chú trọng tăng cường lợi thế cạnh tranh của mình, tạo ra những sản phẩm khác biệt, chú trọng vào những phân khúc khách hàng riêng. 

Đối với những doanh nghiệp nhỏ muốn chen chân vào thị trường độc quyền nhóm thì cần phải tự tạo cho mình sự khác biệt nhất định so với các hãng trước đó, đồng thời phải khoanh vùng đối tượng nhắm đến. Ví dụ, hãng hàng không Bamboo Airways mới gia nhập thị trường không lâu hướng đến các khách hàng tầm trung giữa VNA và Vietjet, đồng thời phát triển các đường bay nối các điểm du lịch có khu nghỉ dưỡng của FLC nhằm thúc đẩy du lịch phát triển. Điều này đã đem lại những kết quả tương đối khả quan cho Bamboo Airways.

C. KẾT LUẬN

Hiện nay, hiện tượng độc quyền nhóm tương đối phổ biến ở Việt Nam, trải rộng trên nhiều lĩnh vực. Độc quyền nhóm vừa có mặt lợi, vừa có mặt hại. Các hãng lớn trong thị trường độc quyền nhóm có sức mạnh thị trường và khả năng chi phối khá lớn. Nếu họ bắt tay với nhau thì người tiêu dùng sẽ bị thiệt và nền kinh tế cũng sẽ trở nên trì trệ, kém phát triển. Chỉ có bằng con đường cạnh tranh lành mạnh giữa các hãng thì người tiêu dùng mới được hưởng lợi và khích thích sự phát triển. Chính vì vậy, cần có những biện pháp phù hợp để chống độc quyền, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cả về phía nhà nước lẫn doanh nghiệp.

Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU

Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

You Might Also Like

0 nhận xét