BÀI TẬP CÁ NHÂN MÔN LUẬT ĐẦU TƯ HLU
tháng 10 10, 20231. Nhà đầu tư chỉ được thực hiện dự án đầu tư ra nước ngoài sau khi được quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài và cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài.
Trả lời:
Khẳng định trên là Sai.
Cơ sở pháp lý: khoản 3 Điều 56 Luật Đầu tư 2020
Giải thích:
Quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài là thuật ngữ được sử dụng ở Luật Đầu tư 2014. Hiện tại, Luật Đầu tư 2020 không còn thuật ngữ này và “quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài” được thay bằng “chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài”.
Bên cạnh đó, khoản 3 Điều 56 Luật Đầu tư 2020 quy định: “Các dự án đầu tư không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này không phải chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài.”
Theo đó, chỉ một số các dự án đầu tư ra nước ngoài phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư. Các dự án không thuộc các trường hợp luật quy định thì không cần thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài.
Như vậy, nhà đầu tư không cần thực hiện thủ tục quyết định chủ trương đầu tư mà chỉ thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài. Đồng thời, có những dự án, nhà đầu tư có thể thực hiện dự án đầu tư ra nước ngoài sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mà không cần được chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài.
Vậy khẳng định đã cho là Sai.
2. Dự án đầu tư thuộc địa bàn ưu đãi đầu tư đương nhiên được hưởng các ưu đãi đầu tư.
Trả lời:
Khẳng định trên là Sai.
Cơ sở pháp lý: điểm b Khoản 5 Điều 15 Luật Đầu tư 2020; Điều 17 Luật Đầu tư 2020
Giải thích: Điểm b khoản 2 Điều 15 Luật Đầu tư 2020 quy định:
“2. Đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư bao gồm:
b) Dự án đầu tư tại địa bàn ưu đãi đầu tư quy định tại khoản 2 Điều 16 của Luật này.”
Theo quy định trên, các dự án đầu tư tại địa bàn ưu đãi đầu tư sẽ được hưởng các ưu đãi đầu tư.
Tuy nhiên, điểm b khoản 5 Điều 15 Luật Đầu tư 2020 quy định:
“5. Ưu đãi đầu tư quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này không áp dụng đối với các dự án đầu tư sau đây:
b) Dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt theo quy định của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, trừ dự án sản xuất ô tô, tàu bay, du thuyền.”
Như vậy, ưu đãi đầu tư tại địa bàn ưu đãi đầu tư sẽ không được áp dụng với các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt theo quy định của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, trừ dự án sản xuất ô tô, tàu bay, du thuyền.
VD: dự án sản xuất thuốc lá tại địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn sẽ không được hưởng ưu đãi đầu tư.
Đồng thời, theo quy định tại Điều 17, Luật Đầu tư 2020, nhà đầu tư cần phải thực hiện các thủ tục hưởng ưu đãi đầu tư tại các cơ quan nhà nước để được hưởng ưu đãi đầu tư.
Từ những phân tích trên, ta thấy rằng, dự án thuộc địa bàn ưu đãi đầu tư không đương nhiên được hưởng các ưu đãi đầu tư.
Vậy khẳng định đã cho là sai.
3. Nhà nước không bỏ vốn trong dự án PPP.
Trả lời:
Khẳng định trên là Sai.
Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 69 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư 2020
Giải thích: Khoản 1 Điều 69 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư 2020 quy định:
“1. Vốn nhà nước được sử dụng cho các mục đích sau đây:
a) Hỗ trợ xây dựng công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng thuộc dự án PPP;
b) Thanh toán cho doanh nghiệp dự án PPP cung cấp sản phẩm, dịch vụ công;
c) Chi trả kinh phí bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ, tái định cư; hỗ trợ xây dựng công hình tạm;
d) Chi trả phần giảm doanh thu;
đ) Chi phí của cơ quan có thẩm quyền, cơ quan ký kết hợp đồng, đơn vị chuẩn bị dự án PPP, bên mời thầu để thực hiện các hoạt động thuộc nhiệm vụ của mình quy định tại Điều 11 của Luật này;
e) Chi phí của Hội đồng thẩm định dự án PPP, đơn vị được giao nhiệm vụ thẩm định dự án PPP.”
Từ quy định trên, ta thấy, trong dự án PPP, bên cạnh vốn của nhà đầu tư tư nhân, nhà nước cũng bỏ vốn vào dự án PPP. Tuy nhiên, phần vốn của nhà nước chỉ được sử dụng cho những mục đích nhất định được quy định trong luật như hỗ trợ xây dựng công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng thuộc dự án PPP, thanh toán cho doanh nghiệp dự án PPP cung cấp sản phẩm, dịch vụ công…
Như vậy, có thể kết luận rằng, nhà nước có bỏ vốn trong dự án PPP.
Vậy khẳng định đã cho là sai.
Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU
Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395
.png)
0 nhận xét