Trục lợi, gian lận bảo hiểm là gì? Phân tích thực trạng pháp luật về trục lợi, gian lận bảo hiểm tại Việt Nam. Khuyến khích tìm hiểu pháp luật của một số nước trên giới về trục lợi, gian lận bảo hiểm, từ đó đề xuất một số ý kiến pháp lý nhằm ngăn chặn và xử lý các hành vi trục lợi, gian lận bảo hiểm tại Việt Nam
tháng 10 10, 2023
MỞ ĐẦU
Những năm qua, trong sự phát triển nhanh chóng của thị trường bảo hiểm nước ta, đã xuất hiện tình trạng trục lợi bảo hiểm, gây thiệt hại về vật chất, uy tín cho nhiều doanh nghiệp bảo hiểm, xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia bảo hiểm, đồng thời ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của thị trường bảo hiểm. Để hạn chế tình trạng này, cần phải có các giải pháp đồng bộ, trong đó cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về kinh doanh bảo hiểm.
Để có một cái nhìn tổng quan hơn về vấn đề này, sau đây em xin trình bày về đề tài: “Trục lợi, gian lận bảo hiểm là gì? Phân tích thực trạng pháp luật về trục lợi, gian lận bảo hiểm tại Việt Nam. Khuyến khích tìm hiểu pháp luật của một số nước trên giới về trục lợi, gian lận bảo hiểm, từ đó đề xuất một số ý kiến pháp lý nhằm ngăn chặn và xử lý các hành vi trục lợi, gian lận bảo hiểm tại Việt Nam.”
NỘI DUNG
I. Một số vấn đề chung về trục lợi, gian lận bảo hiểm
1. Khái niệm trục lợi, gian lận bảo hiểm
Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lời. Trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm. Khách hàng mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện, vụ việc bảo hiểm.
Trong mọi giai đoạn của hoạt động bảo hiểm đều có thể tiềm ẩn hành vi trục lợi, gian lận bảo hiểm. Trục lợi, gian lận bảo hiểm, có thể hiểu là hành vi cố ý lừa dối của các chủ thể trong quan hệ kinh doanh bảo hiểm nhằm thu lợi bất hợp pháp.
Cho dù là phía doanh nghiệp bảo hiểm hay bên mua bảo hiểm có hành vi trục lợi, gian lận thì khái quát lại, hiện tượng trục lợi, gian lận bảo hiểm có những đặc trưng sau:
(1) Có hành vi cố ý lừa dối
Chủ thể cố ý che giấu thông tin hoặc cung cấp thông tin không trung thực nhằm làm cho phía đối tác hiểu sai thực chất của vấn đề. Quan hệ giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm là quan hệ hợp đồng, cho nên nó phải được thực hiện dựa trên nguyên tắc “thiện chí, trung thực”. Mặt khác, bảo hiểm là hoạt động được thực hiện dựa trên niềm tin lẫn nhau của các chủ thể, ở đó, bên mua nhận lời cam kết bồi thường, trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, còn doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận đảm bảo rủi ro chủ yếu thông qua việc khai báo rủi ro của khách hàng. Vì vậy, bất kỳ hành vi cố ý gian dối, không trung thực nào nhằm gây bất lợi cho bên còn lại trong quan hệ đều được xem là phi pháp.
(2) Có mục đích thu lợi bất chính
Người có hành vi gian lận là nhằm mục đích trục lợi cá nhân như hưởng quyền lợi tài chính mà lẽ ra không được hưởng, hưởng quyền lợi tài chính cao hơn mức lẽ ra được hưởng. Khoản lợi bất chính đó chính là khoản bồi thường hay tiền bảo hiểm trả – số tiền mà lẽ ra người thụ hưởng hoặc người được bảo hiểm không được hưởng hoặc ở mức cao mức mà lẽ ra họ được hưởng. Ngược lại, một hành vi gian lận của đại lý hay nhân viên kinh doanh, giám định viên, người quản trị doanh nghiệp bảo hiểm có thể làm tăng thu nhập từ hoa hồng, lương thưởng do giao dịch gian lận mang lại hoặc chiếm đoạt tiền của doanh nghiệp bảo hiểm.
(3) Xâm phạm quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp bảo hiểm
Dù chủ thể của hành vi trục lợi bảo hiểm không phải là khách hàng bảo hiểm mà là người của phía doanh nghiệp bảo hiểm như người quản trị, nhân viên hay người được ủy quyền đại diện… thì doanh nghiệp bảo hiểm cũng là người phải gánh chịu chi phí tăng lên hoặc tổn hại uy tín, hình ảnh, thương hiệu. Xa hơn nữa, tình trạng trục lợi nếu phổ biến sẽ làm xấu đi môi trường của ngành bảo hiểm thương mại, làm ngăn cản sự phát triển lành mạnh của thị trường bảo hiểm.
2. Thực trạng trục lợi, gian lận bảo hiểm ở Việt Nam
Theo thống kê của Cục Quản lý giám sát bảo hiểm (Bộ Tài chính), từ năm 2007 đến năm 2014 tổng số vụ trục lợi bảo hiểm đã phát hiện và có bằng chứng cụ thể để từ chối chi trả bảo hiểm hơn 65.000 vụ, trung bình 8.000 vụ/năm, tổng số tiền lên tới 850 tỉ đồng, trung bình mỗi năm số tiền bị trục lợi là 110 tỉ đồng. Có những doanh nghiệp bảo hiểm lớn, số vụ trục lợi lên đến 2.000 vụ/năm. Đó là chưa tính đến những hồ sơ trục lợi chưa có bằng chứng rõ ràng để từ chối chi trả. Do không đủ thời gian và nguồn lực để điều tra, thẩm tra kỹ càng, các doanh nghiệp chỉ phát hiện được bằng chứng 50% hồ sơ trong số đó, còn 50% các doanh nghiệp buộc phải thanh toán.
Dưới dây là một số thủ đoạn phổ biến được các đối tượng dùng để trục lợi, gian lận bảo hiểm.
Thứ nhất, nhóm hành vi trục lợi, gian lận bảo hiểm liên quan đến công tác thu phí, khai thác, thẩm định hồ sơ yêu cầu bảo hiểm và quản lý hoạt động bảo hiểm, gồm:
- Khách hàng cố ý không cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin sai sự thật các thông tin liên quan đến tình trạng của đối tượng được bảo hiểm (như tình trạng sức khoẻ của bản thân...) để được tham gia bảo hiểm. Ví dụ: người được bảo hiểm đã mắc bệnh hiểm nghèo hoặc bệnh có sẵn trước khi tham gia bảo hiểm, nhưng không khai báo hoặc khai báo không trung thực.
- Giả mạo hồ sơ để tham gia bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Đây là trường hợp mà sau khi sự kiện bảo hiểm xảy ra và gây thiệt hại (như người đã bị tử vong, thương tật hoặc tài sản đã bị hỏng, bị tổn thất), khách hàng mới tham gia bảo hiểm. Hành vi này chủ yếu xảy ra do người tham gia bảo hiểm thông đồng với nhân viên bảo hiểm, đại lý bảo hiểm.
- Thông thường, các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ sẽ có giá trị hoàn lại sau 2 năm. Nếu khách hàng hủy hợp đồng trong 2 năm đầu sẽ không nhận được giá trị hoàn lại. Trong các trường hợp đề nghị hủy bỏ hợp đồng trong thời gian 2 năm đầu, đại lý làm các thủ tục giả mạo để hoàn trả cho khách hàng một khoản tiền nhỏ (thực tế khách hàng sẽ không được hưởng gì nếu theo cam kết tại hợp đồng bảo hiểm), sau đó tiếp tục giả mạo khách hàng đóng phí thêm từ 1 - 2 kỳ cho hợp đồng bảo hiểm. Khi hợp đồng có hiệu lực trên 02 năm và có giá trị hoàn lại, đại lý yêu cầu hủy hợp đồng nhằm hưởng số tiền chênh lệch.
Thứ hai, nhóm các hành vi trục lợi, gian lận bảo hiểm liên quan đến công tác giám định, giải quyết bồi thường hoặc chi trả quyền lợi bảo hiểm, gồm:
- Tự gây thiệt hại để được nhận tiền bồi thường bảo hiểm hoặc chi trả quyền lợi bảo hiểm. Ví dụ như: người được bảo hiểm tự gây thương tích để nhận tiền bồi thường; chủ xe cơ giới tự phá hỏng các bộ phận của xe hoặc hủy hoại dưới hình thức đốt xe, lao xe xuống vực (chủ yếu là xe cũ); tự đốt nhà xưởng; tự làm chìm tàu để đòi tiền bồi thường bảo hiểm...
- Lập hồ sơ giả, hiện trường giả, thay đổi tình tiết vụ tai nạn. Ví dụ như: người được bảo hiểm không nằm viện nhưng vẫn lập giấy tờ giả/bệnh án khống để được thanh toán quyền lợi hỗ trợ nằm viện hoặc được bệnh viện xác nhận số ngày nằm viện nhiều hơn số ngày nằm viện thực tế để được hưởng quyền lợi bảo hiểm; lái xe gây tai nạn không có Giấy phép lái xe, sau đó thay thế người khác có Giấy phép lái xe; hai bên chủ xe phối hợp làm hai bộ hồ sơ khác nhau trong cùng một vụ tai nạn hoặc chủ xe thông đồng dựng hiện trường giả vụ tai nạn; căn cứ một vụ tai nạn giao thông có thật để mua bảo hiểm, lập hồ sơ giả đòi bồi thường ở nhiều công ty bảo hiểm;....
- Khai tăng hoặc khai khống mức độ tổn thất, sự kiện bảo hiểm. Ví dụ như: người được bảo hiểm thông đồng với nhân viên giám định, bác sĩ, cơ sở khám, chữa bệnh, khai tăng hoặc khai khống số tiền viện phí, tiền điều trị, tiền thuốc hoặc yêu cầu bác sĩ kê nhiều loại thuốc đắt tiền nhưng khi mua thuốc lại không mua các loại thuốc này mà sử dụng đơn thuốc này để yêu cầu bảo hiểm chi trả quyền lợi bảo hiểm nhằm mục đích trục lợi; người được bảo hiểm cấu kết với các cơ sở sửa chữa xe kê khai số lượng và mức độ tổn thất, sự kiện bảo hiểm của các bộ phận lớn hơn tổn thất thực tế.
II. Thực trạng pháp luật về trục lợi, gian lận bảo hiểm tại Việt Nam
1. Quy định về các nguyên tắc trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm
1.1. Quy định về hợp đồng bảo hiểm
* Quy định về quyền lợi được bảo hiểm:
Khoản 9 Điều 3 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định: “Quyền lợi có thể được bảo hiểm là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm.”
Theo đó, người tham gia bảo hiểm phải có một số quan hệ với đối tượng được bảo hiểm và được pháp luật công nhận. Quy định này nhằm loại bỏ khả năng bảo hiểm cho tài sản của người khác, hoặc cố tình gây thiệt hại, tổn thất để thu lợi bất chính. Mối quan hệ đó thể hiện qua quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền định đoạt, quyền sử dụng tài sản được bảo hiểm.
* Quy định về nội dung của hợp đồng bảo hiểm:
Nội dung của hợp đồng bảo hiểm được quy định tại Điều 13 Luật Kinh doanh bảo hiểm. Quy định này là tổng thể những thỏa thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm được ghi nhận trong hợp đồng bảo hiểm. Quy định này càng chặt chẽ thì càng hạn chế được tình trạng trục lợi bảo hiểm.
* Quy định về hình thức của hợp đồng bảo hiểm:
Điều 14 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định: “Hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản.” Điều này nhằm đảm bảo khả năng thực hiện đúng hợp đồng của các bên, tránh trục lợi bảo hiểm cũng như tạo thuận lợi cho công tác kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
* Quy định về hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm:
Điều 15 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định: “Trách nhiệm bảo hiểm phát sinh khi có một trong những trường hợp sau đây:
1. Hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết và bên mua bảo hiểm đã đóng đủ phí bảo hiểm;
2. Hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết, trong đó có thỏa thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm về việc bên mua bảo hiểm nợ phí bảo hiểm;
3. Có bằng chứng về việc hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết và bên mua bảo hiểm đã đóng đủ phí bảo hiểm.”
Quy định này đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm vì chỉ khi nào hợp đồng phát sinh hiệu lực thì các bên mới có quyền và nghĩa vụ với nhau, tránh trường hợp khi đã có tổn thất, sự kiện bảo hiểm xảy ra mới mua bảo hiểm.
1.2. Quy định về bồi thường/trả tiền bảo hiểm
Quy định tại Điều 46 Luật Kinh doanh bảo hiểm đã thể hiện rõ nguyên tắc bồi thường trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Theo nguyên tắc này, khi tổn thất xảy ra, người được bảo hiểm phải được đưa về trạng thái tài chính ban đầu như khi tổn thất chưa xảy ra. Người được bảo hiểm không thể được trả tiền bảo hiểm nhiều hơn quyền lợi bảo hiểm mà họ có.
1.3. Quy định về nghĩa vụ minh bạch thông tin của doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm
Theo quy định tại khoản 1 Điều 19 Luật Kinh doanh bảo hiểm, khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm; bên mua bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến đối tượng bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm.
Vai trò của minh bạch thông tin là hết sức quan trọng trong việc ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm. Nếu quy định về minh bạch thông tin không cụ thể, rõ ràng, sẽ là kẽ hở để các bên tham gia hợp đồng lợi dụng để trục lợi bảo hiểm.
2. Quy định về trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể thực hiện hành vi trục lợi bảo hiểm
2.1. Quy định về trách nhiệm hành chính
Trách nhiệm hành chính là hậu quả pháp lý bất lợi mà các chủ thể có hành vi trục lợi bảo hiểm phải gánh chịu khi có hành vi vi phạm. Loại trách nhiệm pháp lý này có thể áp dụng đồng thời với trách nhiệm dân sự. Trách nhiệm hành chính do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng. Hình thức trách nhiệm hành chính phổ biến là phạt tiền đối với tổ chức, cá nhân có hành vi trục lợi bảo hiểm. Mặc dù việc xử phạt vi phạm hành chính không nghiêm khắc như xử phạt hình sự nhưng áp dụng nhanh hơn và dễ dàng hơn so với thủ tục tố tụng.
Khoản 3 Điều 14 Nghị định 98/3013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 48/2018/NĐ-CP) quy định:
“3. Phạt tiền từ 90.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm về gian lận trong kinh doanh bảo hiểm mà số tiền chiếm đoạt dưới 20.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại dưới 50.000.000 đồng hoặc chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, cụ thể như sau:
a) Thông đồng với người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm để giải quyết bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm trái pháp luật;
b) Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin để từ chối bồi thường, trả tiền bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm đã xảy ra;
c) Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin trong hồ sơ yêu cầu bồi thường, trả tiền bảo hiểm;
d) Tự gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe của mình để hưởng quyền lợi bảo hiểm trừ trường hợp luật quy định khác”.
Bên cạnh những ưu điểm như: xử ý kịp thời các hành vi trục lợi, kịp thời răn đe và bình ổn thị trường; thay đổi mức phạt phù hợp với mức độ vi phạm của hành vi; quy định rõ ràng về thẩm quyền xử phạt; biện pháp xử phạt bổ sung, khắc phục hậu quả phù hợp với đặc thù của hành vi vi phạm... thì chế tài hành chính còn có những hạn chế trong việc ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm như: chưa có khái niệm về trục lợi, gian lận bảo hiểm, mức xử phạt còn thấp.
2.2. Quy định về trách nhiệm dân sự
Trách nhiệm dân sự là hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể thực hiện hành vi trục lợi bảo hiểm phải gánh chịu khi có vi phạm dân sự hoặc thiệt hại xảy ra.
Khoản 2 Điều 19 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định:
“Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có một trong những hành vi sau đây:
a) Cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường;
b) Không thực hiện các nghĩa vụ trong việc cung cấp thông tin cho doanh nghiệp bảo hiểm theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 18 của Luật này.”
Đồng thời, điểm d khoản 1 Điều 22 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định:
“Hợp đồng bảo hiểm vô hiệu trong các trường hợp sau đây:
d) Bên mua bảo hiểm hoặc doanh nghiệp bảo hiểm có hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng bảo hiểm.”
Luật kinh doanh bảo hiểm không đề cập đến trục lợi bảo hiểm mà chỉ đề cập đến “nghĩa vụ cung cấp thông tin” và “quyền của doanh nghiệp bảo hiểm” từ chối chi trả, bồi thường khi bên mua bảo hiểm cung cấp thông tin không trung thực. Theo đó, việc chế tài chỉ dừng lại ở việc doanh nghiệp bảo hiểm được đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Về bản chất, việc lừa dối và cố ý cung cấp thông tin sai sự thật là tương tự nhau. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành quy định hậu quả pháp lý của hai hành vi này là khác nhau. Điều này gây ra sự mâu thuẫn lẫn nhau, gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật. Bên cạnh đó, pháp luật hiện hành mới chỉ quy định chế tài dân sự cho hành vi liên quan đến nghĩa vụ cung cấp thông tin mà chưa có quy định đối với các hành vi trục lợi, gian lận bảo hiểm khác.
2.3. Quy định về trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm thể hiện sự trừng phạt nghiêm khắc nhất của nhà nước đối với người phạm tội. Việc áp dụng trách nhiệm pháp lý này có thể áp dụng đồng thời với trách nhiệm dân sự khi hành vi này gây thiệt hại đến các chủ thể khác trong quan hệ kinh doanh bảo hiểm.
Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã bổ sung thêm tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm tại Điều 213. Tội danh “gian lận bảo hiểm” trong Bộ luật Hình sự đã được quy định theo hướng xử lý toàn diện các đối tượng thực hiện hành vi gian lận bảo hiểm (doanh nghiệp bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm và các đối tượng khác có liên quan). Hình phạt cao nhất đối với người phạm tội này là 07 năm tù. Bên cạnh đó, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Việc bổ sung tội danh “gian lận bảo hiểm” cũng đảm bảo tương xứng với các tội danh khác và phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần ngăn ngừa hành vi gian lận bảo hiểm và lành mạnh hóa thị trường bảo hiểm Việt Nam.
III. Một số kiến nghị nhằm ngăn ngừa tình trạng trục lợi, gian lận bảo hiểm tại Việt Nam
1. Kinh nghiệm ngăn ngừa tình trạng trục lợi, gian lận bảo hiểm của một số quốc gia trên thế giới
Tại Mỹ, để ngăn chặn tội phạm bảo hiểm, Hội đồng thành phố Washington DC đã ban hành đạo luật đấu tranh chống tệ nạn lừa đảo bảo hiểm, trong đó người gian lận sẽ bị phạt 50.000 USD và 15 năm tù giam, ngoài ra còn phải bồi thường khoản tiền chiếm đoạt do lừa đảo. Các công ty bảo hiểm phải xây dựng các chương trình cụ thể nhằm bảo vệ và chống lừa đảo bảo hiểm. Những công ty không thực hiện chương trình này sẽ bị phạt.
Tại Pháp, quá trình giám định, bồi thường, chi trả tiền bảo hiểm phải được thực hiện đúng nguyên tắc và trình tự mỗi khâu. Nếu thấy nghi ngờ một loại giấy tờ nào đó hoặc không rõ về thời gian, không gian trong các vụ tổn thất thì cần xác minh lại ngay. Tất cả các hãng bảo hiểm của Pháp đều có danh sách những người lừa đảo bảo hiểm đã bị toà án kết tội để không ký hợp đồng bảo hiểm với các đối tượng này, đồng thời nghiên cứu kỹ hồ sơ các vụ gian lận để tìm các biện pháp phòng chống
Tại Nhật Bản, nhằm hạn chế khả năng trục lợi bảo hiểm, Nhật Bản đã quy định nếu xe tham gia nhiều hợp đồng bảo hiểm thì chỉ giải quyết theo hợp đồng đầu tiên, đồng thời thiết lập công khai số điện thoại thông báo nghi ngờ trục lợi bảo hiểm; cảnh sát giao thông có thể dùng dịch vụ thám tử tư để xác minh các thông tin liên quan đến quy trình giám định và bồi thường…
Song song với việc hoàn thiện chế tài xử lý hành vi gian lận bảo hiểm, thì việc thành lập các cơ quan chuyên trách phòng, chống gian lận bảo hiểm là vấn đề đáng được quan tâm. Kinh nghiệm ở các nước cho thấy, các cơ quan chuyên trách giám sát, ngăn ngừa gian lận bảo hiểm đóng vai trò quan trọng trong công tác phòng, chống gian lận bảo hiểm.
Canada thành lập Cục phòng, chống tội phạm bảo hiểm từ năm 1973 chuyên trách điều tra các yêu cầu gian lận bảo hiểm và cung cấp thông tin ngăn ngừa tổn thất trong bảo hiểm. Bên cạnh đó, Canada còn thành lập Liên đoàn các tổ chức chống gian lận bảo hiểm vào năm 1994, bao gồm các tổ chức chống tội phạm, các công ty bảo hiểm, cảnh sát, luật sư và khách hàng. Liên đoàn các tổ chức chống gian lận bảo hiểm đã đưa ra các hướng dẫn cụ thể cho các doanh nghiệp bảo hiểm về các biện pháp đấu tranh chống tội phạm bảo hiểm.
Tại Anh, năm 1988, Văn phòng chống trục lợi bảo hiểm nghiêm trọng (SFO) được thành lập. Cho đến nay, đây là cơ quan chuyên trách xử lý các hành vi gian lận nghiêm trọng hoặc phức tạp trong lĩnh vực bảo hiểm. Với việc sử dụng công nghệ tiên tiến trong việc điều tra và truy tố, tập trung lực lượng điều tra viên và luật sư trong lĩnh vực gian lận bảo hiểm có trình độ, giàu kinh nghiệm, khả năng phá án tốt, SFO đã trở thành cánh tay đắc lực cho các hãng bảo hiểm Anh trong việc truy tố tội phạm gian lận bảo hiểm.
2. Một số kiến nghị nhằm ngăn ngừa tình trạng trục lợi, gian lận bảo hiểm tại Việt Nam
2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về chế tài xử lý hành vi gian lận bảo hiểm
Thứ nhất, đối với hành vi gian lận khi khai báo thông tin yêu cầu bảo hiểm ở giai đoạn tiền hợp đồng, hay gian lận trong việc thực hiện các quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm trong quá trình thực hiện yêu cầu bồi thường, cần sửa đổi các chế tài phù hợp, tránh sự chồng chéo không rõ ràng như hiện tại.
Cụ thể, cần phân biệt rõ giữa hành vi lừa dối với hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật, đảm bảo tính nhất quán trong quy định của pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm.
Để đảm bảo quyền và lợi ích của các bên tham gia bảo hiểm, cần quy định linh hoạt các chế tài dân sự theo mức độ vi phạm đối với nghĩa vụ cung cấp thông tin. Đối với những thông tin bên mua bảo hiểm cung cấp trước khi giao kết hợp đồng, nếu doanh nghiệp chứng minh được bên mua bảo hiểm cố ý cung cấp sai sự thật thì hợp đồng phải được tuyên vô hiệu; nếu việc cung cấp thông tin sai sự thật xảy ra sau khi giao kết hợp đồng hay trong quá trình thực hiện hợp đồng thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng và thu phí tới thời điểm đơn phương đình chỉ hợp đồng.
Việc gian lận, trục lợi khi xảy ra sự kiện bảo hiểm vô cùng phổ biến. Tuy nhiên, Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành lại chưa quy định các chế tài dân sự đối với hành vi này. Cần bổ sung thêm quy định: khi xảy ra sự kiện được bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng bịa đặt một lý do sai dẫn đến sự kiện bảo hiểm hoặc phóng đại mức độ thiệt hại bằng cách sử dụng bằng chứng giả mạo hoặc thay đổi tài liệu bằng chứng khác, thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường hoặc thanh toán tiền bảo hiểm cho phần bịa đặt của yêu cầu bồi thường.
Thứ hai, cần sửa đổi, bổ sung quy định về chế tài hành chính cho các hành vi trục lợi, gian lận bảo hiểm; cần đưa ra định nghĩa thế nào là hành vi trục lợi, gian lận bảo hiểm; tăng mức xử phạt vi phạm hành chính lên nhiều lần để tương xứng với mức độ thiệt hại mà xã hội và các chủ thể trong quan hệ bảo hiểm phải gánh chịu vì các đối tượng gian lận thường nhắm đến số tiền bảo hiểm lên đến hàng chục tỷ đồng, và công tác điều tra, xác minh hành vi vi phạm gặp nhiều khó khăn.
Thứ ba, cần sửa đổi Bộ luật Hình sự theo hướng xác định cụ thể các hành vi không kê khai trung thực, đánh tráo tài sản nhằm trục lợi, tạo dựng hiện trường giả, lập hồ sơ khống, lập hồ sơ không trung thực... phải chịu trách nhiệm hình sự.
2.2. Thành lập cơ quan chuyên trách giám sát, ngăn ngừa gian lận bảo hiểm
Ở nước ta hiện nay, các hành vi trục lợi, gian lận bảo hiểm thường do các doanh nghiệp bảo hiểm phát hiện; trong số đó, có trường hợp bị phát hiện nhưng lại không bị xử lý, mà còn được chấp nhận chi trả bảo hiểm. Nguyên nhân là do công tác thu thập, chứng minh người tham gia bảo hiểm có hành vi cố ý khai sai thông tin, tự gây thiệt hại về sức khỏe của mình, hay cấu kết với các bên liên quan để được hưởng quyền lợi bảo hiểm là rất khó khăn, nhất là khi doanh nghiệp bảo hiểm không có sự hỗ trợ cần thiết từ phía người dân, các cơ quan nhà nước.
Trong điều kiện đó, việc thành lập một cơ quan chống gian lận bảo hiểm là thực sự cần thiết và cấp thiết. Việc thành lập cơ quan chống gian lận bảo hiểm sẽ là một giải pháp hiệu quả trong công tác phòng, chống gian lận bảo hiểm và tạo tính an toàn, lành mạnh trong môi trường kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam.
2.3. Xây dựng hệ thống dữ liệu bảo hiểm
Việc đánh giá, theo dõi đặc điểm, hành vi trục lợi của đối tượng có thể được phân tích trực tiếp thông qua hệ thống dữ liệu bảo hiểm. Hệ thống dữ liệu bảo hiểm được xây dựng cần thiết đáp ứng các tiêu chí:
(1) Là hệ thống mở, người dân và cộng đồng doanh nghiệp được quyền truy cập miễn phí hoặc có trả phí tùy vào mục đích sử dụng cá nhân hay thương mại (giống như hệ thống thông tin giao dịch bảo đảm của Bộ Tư pháp…).
(2) Hệ thống hướng đến sự minh bạch thông tin của toàn thị trường, bao gồm các thông tin về kỹ thuật, nghiệp vụ, an toàn, pháp lý, thương mại, lịch sử đối tượng, lịch sử rủi ro, bồi thường trong quá khứ, hiện tại sẽ được tích hợp thống nhất.
Mục đích của hệ thống nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia có thể tiếp cận, tra cứu để nhận biết, xem xét, sàng lọc thông tin, qua đó giúp họ chủ động hơn trong giao dịch, cơ quan nhà nước thẩm quyền có dữ liệu thực tế để xây dựng, hoạch định chính sách quản lý.
KẾT LUẬN
Trục lợi và gian lận bảo hiểm ngày càng trở nên phổ biến, tinh vi và khó kiểm soát. Trước tình hình đó, pháp luật đóng vai trò là một công cụ vô cùng quan trọng trong việc ngăn ngừa trục lợi và gian lận bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay. Pháp luật hiện hành cơ bản đã có những quy định để điều chỉnh và xử lý các hành vi trục lợi, gian lận bảo hiểm. Tuy nhiên, các quy định này vẫn cần được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình hình thực tế, nhằm gia tăng hiệu quả ngăn ngừa trục lợi và gian lận bảo hiểm.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010, 2019)
2. Bộ luật Dân sự 2015
3. Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
4. Nghị định 98/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số
5. Nghị định 48/2018/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 98/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số
6. Bạch Thị Nhã Nam (2021), Gian lận bảo hiểm nhân thọ và giải pháp phòng, chống gian lận, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 14(438), tháng 7/2021, http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210878 (truy cập ngày 17/12/2021)
7. Doãn Hồng Nhung (2014), Một số ý kiến hoàn thiện pháp luật về phòng ngừa, ngăn chặn trục lợi bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội: Luật học, Tập 30, Số 3 (2014), tr. 33-40
8. Hằng Phương (2021), Đại biểu Quốc hội: Có tình trạng lợi dụng kinh doanh bảo hiểm để huy động vốn đa cấp, Báo Quân đội nhân dân, https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tin-tuc/dei-bieu-quoc-hoi-co-tinh-trang-loi-dung-kinh-doanh-bao-hiem-de-huy-dong-von-da-cap-675771 (truy cập ngày 17/12/2021)
9. Huỳnh Trung Hiếu (2021), Trục lợi bảo hiểm, Kinh tế Sài Gòn Online, https://thesaigontimes.vn/truc-loi-bao-hiem/ (truy cập ngày 17/12/2021)
10. Nguyễn Thái Công (2019), Tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội
11. Nguyễn Thái Công (2019), Một số vấn đề về trục lợi trong kinh doanh bảo hiểm và tội gian lận kinh doanh bảo hiểm, Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp, https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2467 (truy cập ngày 17/12/2021)
12. Nguyễn Thị Thủy (2006), Chống trục lợi bảo hiểm tài sản trong Luật kinh doanh bảo hiểm, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 9/2006, tr. 21-29
13. ThS. Nguyễn Thị Hoài Thu (2016), Hoàn thiện các quy định của pháp luật để ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7 (311)/Kỳ 1, tháng 4/2016, tr. 42 - 51
14. Lan Phương (2021), Đề xuất sửa đổi Luật Kinh doanh bảo hiểm, Báo điện tử Chính phủ, http://baochinhphu.vn/Chinh-sach-moi/De-xuat-sua-doi-Luat-Kinh-doanh-bao-hiem/420982.vgp (truy cập ngày 17/12/2021)
15. TS. Lê Thị Thảo (2017), Hoàn thiện chế tài xử lý đối với hành vi trục lợi trong bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, Số 1/2017, tr. 46-53, https://tks.edu.vn/WebTapChiKhoaHoc/Detail/185?idMenu=64 (truy cập ngày 17/12/2021)
16. ThS. Nguyễn Thị Hoài Thu (2018), Ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm bằng các quy định về quản lý, giám sát của cơ quan nhà nước, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, https://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/phap-luat-kinh-te.aspx?ItemID=160 (truy cập ngày 17/12/2021)
17. Nguyễn Thị Hoài Thu (2017), Ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm bằng pháp luật ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ luật học, Hà Nội
18. ThS. Nguyễn Thị Thủy (2007), Nhận diện hành vi trục lợi trong bảo hiểm tài sản, Tạp chí Luật học, Số 2/2007, tr. 57 – 65
19. Nguyễn Tiến Hùng (2015), Trục lợi bảo hiểm và chống trục lợi bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm thương mại Việt Nam: Từ lý thuyết đến thực tiễn, Tạp chí Phát triển & Hội nhập, số 23(33), tháng 07-08/2015, tr. 50-57
20. Phương Linh (2021), Khai báo gian đối để trục lợi bảo hiểm có thể bị xử lý hình sự, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam, https://lsvn.vn/khai-bao-gian-doi-de-truc-loi-bao-hiem-co-the-bi-xu-ly-hinh-su1634319314.html (truy cập ngày 17/12/2021)
21. Phương Thủy (2021), Kiến nghị biện pháp phòng ngừa trục lợi bảo hiểm, Báo Công an nhân dân Online, https://cand.com.vn/su-kien-binh-luan-thoi-su/kien-nghi-bien-phap-phong-ngua-truc-loi-bao-hiem-i632656/ (truy cập ngày 17/12/2021)
22. Sông Trà (2015), Ngăn ngừa, xử lý nghiêm hành vi trục lợi bảo hiểm, Báo Nhân Dân, https://nhandan.vn/tin-tuc-xa-hoi/ngan-ngua-xu-ly-nghiem-hanh-vi-truc-loi-bao-hiem-246284 (truy cập ngày 17/12/2021)
23. Hoài Thu (2016), Cần ngăn chặn tình trạng trục lợi bảo hiểm, Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính, https://mof.gov.vn/webcenter/portal/ttpltc/pages_r/l/chi-tiet-tin-ttpltc?dDocName=MOFUCM090191 (truy cập ngày 17/12/2021)
24. Tâm Lụa (2020), Gian dối trục lợi bảo hiểm, 'tiền mất, tật mang', Báo Tuổi trẻ Online, https://tuoitre.vn/gian-doi-truc-loi-bao-hiem-tien-mat-tat-mang-20200820071615224.htm (truy cập ngày 17/12/2021)
25. T.H (2017), Công tác phòng chống trục lợi bảo hiểm xe cơ giới ở một số nước trên thế giới, http://www.csgt.vn/tintuc/7090/Cong-tac-phong-chong-truc-loi-bao-hiem-xe-co-gioi-o-mot-so-nuoc-tren-the-gioi.html (truy cập ngày 18/12/2021)
Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU
Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

0 nhận xét