Được tạo bởi Blogger.
facebook youtube

Rey & Law

    • Home
    • HỌC LUẬT Ở HLU
    • HỌC LUẬT SƯ
    • HỌC THẠC SĨ
    • CHUYỆN ĐI LÀM
    • TỰ HỌC LUẬT


     

    LỜI NÓI ĐẦU

    Trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm, một trong những yêu cầu quan trọng đặt ra đó là tính trung thực trong việc cung cấp thông tin của các bên. Bởi lẽ, yêu cầu này xuất phát từ nguyên tắc trung thực tuyệt đối, nhằm đảm bảo việc ký kết hợp đồng được dựa trên ý chí của cả hai bên. Tuy nhiên, trên thực tế xảy ra rất nhiều trường hợp các bên xảy ra tranh chấp về nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, sau đây nhóm chúng em xin trình bày về đề bài số 01: “Tìm hiểu về trách nhiệm cung cấp thông tin của các bên trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm. Phân tích một tình huống thực tế về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm liên quan đến trách nhiệm cung cấp thông tin của người tham gia bảo hiểm”.

    Do còn nhiều hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên không thể tránh khỏi những khiếm khuyết, kính mong sẽ nhận được sự nhận xét và đóng góp ý kiến từ phía các thầy cô để bài làm của chúng em được hoàn thiện hơn.

    Chúng em xin chân thành cảm ơn!

    NỘI DUNG 

    I. Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm cung cấp thông tin của các bên trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm

    1. Khái quát chung về hợp đồng bảo hiểm

    Thứ nhất, về khái niệm

    Hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về bảo hiểm, vì khái niệm bảo hiểm được xây dựng dựa trên từng góc độ nghiên cứu khác nhau như xã hội, pháp lý, kinh tế, kỹ thuật, nghiệp vụ,… Tuy nhiên có thể hiểu một cách khái quát nhất thì Bảo hiểm là một hoạt động qua đó một cá nhân có quyền được hưởng trợ cấp bảo hiểm nhờ vào một khoản đóng góp cho mình hoặc cho người thứ 3 trong trường hợp xảy ra rủi ro. Khoản trợ cấp này do một tổ chức trả, tổ chức này có trách nhiệm đối với toàn bộ các rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê.

    Đối với hợp đồng bảo hiểm, Khoản 1 Điều 12 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định như sau: “Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự hiện bảo hiểm.”

    Thứ hai, về đặc điểm:

    – Chủ thể tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm là doanh nghiệp bảo hiểm với bên mua bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể đồng thời là người được bảo hiểm và người thụ hưởng bảo hiểm.

    – Tính đền bù trong hợp đồng bảo hiểm không xác định được ở thời điểm giao kết hợp đồng (Trừ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ)

    Khi hợp đồng bảo hiểm được giao kết và có hiệu lực, các quan hệ bảo hiểm sẽ được hình thành. Tuy nhiên, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ thực hiện nghĩa vụ trả tiền hoặc bồi thường cho bên được bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Nghĩa là rủi ro được bảo hiểm chỉ là giả thiết xảy ra trong tương lai nhưng không biết chính xác diễn biến sự kiện sẽ xảy ra ở đâu, bao giờ và cụ thể rủi ro là gì, mức độ tổn thất bao nhiêu…

    – Hợp đồng bảo hiểm là loại hợp đồng có điều khoản mẫu (hợp đồng gia nhập), là hợp đồng song vụ có điều kiện và bao giờ cũng thể hiện dưới hình thức văn bản.

    Các điều khoản có trong hợp đồng bảo hiểm được cơ quan pháp luật hoặc doanh nghiệp bảo hiểm quy định theo mẫu cố định. Bên mua bảo hiểm không có quyền đàm phán, sửa đổi các điều khoản hoặc có thể từ chối kí kết vào hợp đồng bảo hiểm. Tính song vụ được thể hiện ở chỗ các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm đều có nghĩa vụ đối với nhau. Việc thực hiện nghĩa vụ này là trách nhiệm của các bên tham gia, nghĩa vụ của bên này chính là quyền lợi của bên kia và ngược lại.

    – Hợp đồng bảo hiểm là loại hợp đồng có chứa đựng tính chất may rủi. Mối quan hệ giữa các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm mang tính chuyển dịch rủi ro từ người mua bảo hiểm sang bên nhận bảo hiểm. Nhờ các mối quan hệ bảo hiểm, bên mua bảo hiểm được đảm bảo về sự an toàn, kinh tế trong các trường hợp xuất hiện rủi ro về sức khỏe, tính mạng, tài sản.

    Nếu không tồn tại rủi ro thì không có việc giao kết cũng như tồn tại hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm. Do vậy mà yếu tố trung thực của các bên tham gia bảo hiểm là yếu tố quan trọng góp phần bảo đảm quyền lợi cho cả người tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm.

    2. Cơ sở trách nhiệm cung cấp thông tin của các bên trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm

    Mang bản chất của một hợp đồng dân sự, hợp đồng bảo hiểm cũng đòi hỏi phải được giao kết dựa trên cơ sở của quyền tự do ý chí. Là một nguyên tắc cơ bản của quan hệ pháp luật dân sự, quyền tự do ý chí đã được ghi nhận tại Điều 1 Bộ luật dân sự năm 2015: “Bộ luật này quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự)”. Trong hợp đồng bảo hiểm, quyền tự do ý chí được đảm bảo bằng những yêu cầu cao hơn về nghĩa vụ của các bên giao kết hợp đồng so với các quan hệ dân sự thông thường. Một trong số những yếu tố đảm bảo là nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm. Chỉ khi doanh nghiệp có thể nắm bắt được những thông tin có liên quan mới đủ cơ sở để xét đến ý chí của doanh nghiệp trong việc giao kết hợp đồng. Mặc dù bên bảo hiểm có thể đối phó với thế mạnh của bên mua bảo hiểm bằng cách tự mình tiến hành điều tra, tìm hiểu thông tin nhưng vì nhiều lý do khác nhau (như quá trình giao kết hợp đồng được thực hiện trong khoảng thời gian rất ngắn), việc điều tra không phải lúc nào cũng có thể toàn diện và đạt kết quả như mong muốn. Hơn nữa, công việc điều tra, xác minh cho dù được thực hiện theo cách thức nào cũng không thể tránh khỏi phí tổn và thời gian. Do vậy, có thể nói, dù muốn hay không, bên bảo hiểm vẫn ở thế yếu khi phải chịu sự lệ thuộc vào sự chia sẻ thông tin từ phía người mua bảo hiểm. Nói cách khác, nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm đảm bảo cho doanh nghiệp bảo hiểm tính toán được mức độ của rủi ro – vốn là cơ sở của hợp đồng bảo hiểm trước khi quyết định có hay không ký kết hợp đồng bảo hiểm với khách hàng.

    Bên cạnh mục đích bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm, cơ sở của nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm còn xuất phát từ những nguyên tắc đặc trưng của hợp đồng bảo hiểm, đó là nguyên tắc trung thực tuyệt đối; nguyên tắc chỉ bảo hiểm cho rủi ro, không bảo hiểm cho sự chắc chắn. Theo nguyên tắc trung thực tuyệt đối, bên bảo hiểm và bên được bảo hiểm phải tuyệt đối trung thực và tin tưởng lẫn nhau. Các bên phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của thông tin cung cấp cho bên kia.

    Nguyên tắc chỉ bảo hiểm cho rủi ro, không bảo hiểm cho sự chắc chắn bắt nguồn từ thực tế yếu tố rủi ro có thể được đánh giá một cách gián tiếp thông qua thông tin được cung cấp từ cả hai bên trong hợp đồng. Sự bất cân xứng về thông tin của các bên trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm là rào cản cần phải vượt qua khi các bên dành cho nhau sự thiện chí trên cơ sở cung cấp đầy đủ thông tin một cách trung thực. Nếu cần trung thực tuyệt đối không được đảm bảo, hợp đồng có thể không cần phải được thực hiện bởi một bên còn lại của hợp đồng.

    Từ những cơ sở đó, nghĩa vụ cung cấp thông tin cho dù được thực hiện theo cách thức như thế nào cũng cần phải đảm bảo hai yêu cầu cơ bản là: trung thực và đầy đủ. Trung thực hàm ý việc cung cấp thông tin phải chính xác, một cách cẩn trọng, tích cực, đầy đủ, đòi hỏi dung lượng thông tin phải giúp cho doanh nghiệp bảo hiểm trả lời được những câu hỏi cơ bản nhất khi trở thành một bên giao kết hợp đồng.

    II. Quy định của pháp luật về trách nhiệm cung cấp thông tin của người tham gia bảo hiểm trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng.

    Như đã trình bày ở phần lý luận, hợp đồng bảo hiểm được ký kết giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, do đó trách nhiệm cung cấp thông tin của các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm được phân tích theo hướng như sau:

    1. Trách nhiệm cung cấp thông tin của doanh nghiệp bảo hiểm

    Đây là trách nhiệm quan trọng của doanh nghiệp bảo hiểm, thể hiện tính chính xác, trung thực của doanh nghiệp bảo hiểm trong việc cung cấp thông tin đầy đủ về hợp đồng bảo hiểm cho khách hàng.

    Theo khoản 1 Điều 19 Luật kinh doanh bảo hiểm quy định: “Khi giao kết hợp đồng, doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan tới hợp đồng bảo hiểm, giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm.”

    Khi tư vấn, các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ giúp bên mua bảo hiểm lựa chọn loại bảo hiểm phù hợp, đồng thời khi thực hiện giao kết hợp đồng phải giải thích các điều kiện điều khoản cho họ. Bên doanh nghiệp bảo hiểm phải chịu trách nhiệm về tính chính xác về những thông tin mà mình đã đưa ra.

    Như vậy, pháp luật đã quy định rất rõ, khi giao kết bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra lời cam kết về điều kiện và phương thức bồi thường nên mọi thông tin đưa ra để cam kết phải là trung thực, rõ ràng. Đó là cơ sở để người tham gia bảo hiểm lựa chọn trước khi đưa ra quyết định tham gia hợp đồng bảo hiểm. Bên cạnh đó, khi bên mua cung cấp các thông tin liên quan tới việc bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm có trách nghiệm giữ bí mật các thông tin đó

    2. Trách nhiệm cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm

    Bên mua bảo hiểm phải cung cấp thông tin trung thực và đầy đủ để doanh nghiệp bảo hiểm đánh giá rủi ro, chấp nhận rủi ro, chấp nhận bảo hiểm, tính phí bảo hiểm cho phù hợp với những thông tin nhận được. Các thông tin do bên mua bảo hiểm cung cấp sẽ được doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm giữ bí mật.

    Khoản 1 Điều 19 Luật kinh doanh bảo hiểm quy định: “…Bên mua bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp thông tin liên quan tới đối tượng bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm.”

    Khoản 2 Điều 18 Luật Kinh doanh bảo hiểm cũng quy định: Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm.

    Ngoài ra trách nhiệm cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm còn được quy định tại điểm c, khoản 2, điều 18 Luật Kinh doanh bảo hiểm: “Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ thông báo những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình thực hiện Hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm”.

    Việc tham gia bảo hiểm thực hiện đúng nghĩa vụ này là cơ sở cho doanh nghiệp bảo hiểm đánh giá rủi ro, chấp nhận bảo hiểm hay không và thuận theo thỏa thuận của cụ thể về một số hợp đồng bảo hiểm. Khi xảy ra những thay đổi đến việc thực hiện hợp đồng đặc biệt là những yếu tố liên quan tới thông tin trọng yếu đã cung cấp khi giao kết hợp đồng đến cả những thay đổi làm gia tăng rủi ro thì bên mua bảo hiểm phải thông báo ngay cho doanh nghiệp bảo hiểm.

    3. Hậu quả pháp lý của việc không cung cấp hoặc cố ý cung cấp thông tin sai sự thật của người tham gia bảo hiểm

    Việc cố ý cung cấp thông tin sai sự thật của người mua bảo hiểm nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường thực chất cũng là một hành vi lừa dối. Hợp đồng bảo hiểm là một loại hợp đồng chuyên biệt nên hậu quả pháp lý của hành vi này sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật Kinh doanh bảo hiểm.

    Hậu quả nếu một bên vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin được quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 19 Luật Kinh doanh bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có một trong những hành vi sau đây: cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường; không thực hiện các nghĩa vụ trong việc cung cấp thông tin cho doanh nghiệp bảo hiểm theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 18 của Luật Kinh doanh bảo hiểm. Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm; doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho bên mua bảo hiểm do việc cung cấp thông tin sai sự thật.

    Theo đó Luật Kinh doanh bảo hiểm áp dụng chế tài đơn phương đình chỉ hợp đồng nếu một bên “cố ý cung cấp thông tin sai sự thật cho bên còn lại”. Trong khi đó, điểm d khoản 1 Điều 22 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định hành vi “lừa dối khi giao kết hợp đồng bảo hiểm” của một bên được coi là căn cứ để tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Tuy nhiên, pháp luật không nói rõ, lúc nào hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sẽ dẫn đến hợp đồng vô hiệu và lúc nào thì đơn phương chấm dứt hợp đồng. Vì vậy, vấn đề đặt ra là đối với hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật để bảo vệ cho bên bị lừa dối thì không thể áp dụng hợp đồng vô hiệu theo Điều 22 Luật Kinh doanh bảo hiểm. Bởi nếu áp dụng điều luật này, chúng ta sẽ “tiếp tay” cho người mua bảo hiểm “thoải mái” cung cấp thông tin sai sự thật khi giao kết hợp đồng để được nhận tiền bảo hiểm hoặc bồi thường thiệt hại vì trong trường hợp xấu nhất hợp đồng đó sẽ bị tuyên là vô hiệu thì người mua bảo hiểm cũng chẳng mất gì. Và như vậy, mục đích bảo vệ người bị lừa dối không đạt được, các nguyên tắc giao kết và thực hiện hợp đồng (trung thực, thiện chí, bình đẳng...) không được đảm bảo, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ không thể hoạt động bình thường. Thực tế hiện chưa có văn bản hướng dẫn việc áp dụng các điều luật trên khiến cho các doanh nghiệp bảo hiểm lúng túng trong cách giải quyết, kết luận đúng đắn của các bản án phụ thuộc phần lớn vào quan điểm của tòa án.

    III. Tình huống về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm liên quan đến trách nhiệm cung cấp thông tin của người tham gia bảo hiểm

    1. Tình huống về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm liên quan đến trách nhiệm cung cấp thông tin của người tham gia bảo hiểm

    Sau đây, để tìm hiểu rõ hơn trách nhiệm cung cấp thông tin của người tham gia bảo hiểm, chúng em xin đưa ra một tình huống tranh chấp cụ thể về hợp đồng bảo hiểm là Bản án dân sự phúc thẩm số 313/2016/DS-PT ngày 16/3/2016 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án tranh chấp hợp đồng bảo hiểm giữa nguyên đơn là ông Đặng Văn L với bị đơn là Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ C.

    Nội dung tranh chấp như sau:

    Ngày 14/10/2008, bà H ký Hợp đồng bảo hiểm Thịnh Trí Thành Tài Bảo Gia với công ty Bảo hiểm nhân thọ C. Ngày 25/03/2009, bà H ký tiếp Hợp đồng Tử kỳ với công ty C. Ngày 09/01/2010, bà H qua đời. Chồng bà là ông L và những người thân trong gia đình đã yêu cầu công ty bảo hiểm chi trả khoản tiền theo quy định trong 02 hợp đồng bảo hiểm đã ký.

    Công ty bảo hiểm cho rằng trong quá trình đăng ký vào giao kết hợp đồng bảo hiểm, bà H đã điền thông tin sức khỏe cá nhân không đúng với bệnh tình trên thực tế, có dấu hiệu gian dối nên đã từ chối chi trả khoản tiền bảo hiểm cho ông L.

    Ngày 10/11/2010, ông L khởi kiện công ty bảo hiểm C ra TAND Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu công ty bảo hiểm trả tiền bảo hiểm theo hợp đồng và tiền lãi chậm trả tương ứng. Bản án sơ thẩm số 1211/2015/TLST-DS ngày 26/8/2015 của TAND Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn. Sau đó, công ty C tiếp tục kháng cáo. Bản án phúc thẩm số 313/2016/DS-PT ngày 16/3/2016  của TAND Thành phố Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bản án phúc thẩm đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xây dựng thành án lệ 22/2018/AL.

    Nhận định của tòa án như sau:

    Tại câu hỏi số 54 Đơn yêu cầu bảo hiểm ngày 25/3/2009, câu hỏi: “loét đường tiêu hóa, xuất huyết tiêu hóa, viêm tụy, viêm kiết tràng, khó tiêu thường xuyên, khó nuốt, hoặc rối loạn tại dạ dày, ruột gan hoặc túi mật” bà H đánh dấu vào ô không. Tại biên bản hội chẩn số 42/BV-99 của Bệnh viện B ngày 03/9/2009 bà H khai có tiền sử đau dạ dày 2 năm. Căn cứ theo Biên bản hội chẩn thì bà H có bệnh đau dạ dày từ ngày 03/9/2007 là trước thời điểm bà H ký Hợp đồng bảo hiểm. Phía Công ty C cho rằng cụm từ “rối loạn tại dạ dày” bao gồm tất cả các bệnh liên quan đến dạ dày trong đó có bệnh đau dạ dày. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, phía bị đơn không đưa ra được bất kỳ chứng cứ nào để chứng minh, không đưa ra được một giải thích khoa học nào xác định đau dạ dày chính là rối loạn tại dạ dày.

    Khoản 2 Điều 407 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Trong trường hợp hợp đồng dân sự theo mẫu có điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó”.

    Điều 21 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định: “Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm có điều khoản không rõ ràng thì điều khoản đó được giải thích theo hướng có lợi cho người mua bảo hiểm”.

    Theo đó, trong trường hợp các bên có sự giải thích khác nhau không rõ ràng khó hiểu thì Điều khoản này phải được giải thích theo hướng có lợi cho bà H. Như vậy, không đủ cơ sở xác định đau dạ dày được bao gồm trong rối loạn tại dạ dày như Công ty C trình bày.

    Xét thấy, tại đơn yêu cầu bảo hiểm không có câu hỏi về bệnh đau dạ dày. Như vậy, phía Công ty C cho rằng bà H bị bệnh đau dạ dày mà không khai báo là cố tình khai báo không trung thực và vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin là không có căn cứ.

    Tại câu hỏi 61 của Đơn yêu cầu bảo hiểm ngày 25/3/2009: “Trong vòng 5 năm trở lại đây, ông, bà đã có làm xét nghiệm chẩn đoán như X-quang, siêu âm, điện tim đồ, thử máu, sinh thiết? Hoặc ốm đau, bệnh tật khám y khoa, điều trị tại bệnh viện nhưng chưa được nêu ở phần trên không?” bà H đánh dấu vào ô không. Tại phiên tòa phúc thẩm, phía Công ty C cung cấp Phiếu xét nghiệm hóa sinh máu đề ngày 22/9/2008 mang tên người bệnh là Trương Thị H. Phía Công ty C xác định đây là tài liệu do Công ty C thu thập trong hồ sơ kiểm tra sức khỏe định kỳ cho nhân viên của Trường Mầm non C nơi trước đây bà H công tác. Công ty C cho rằng vào ngày 22/9/2008, bà H có làm xét nghiệm máu nhưng không khai báo tại câu hỏi số 61, đơn yêu cầu bảo hiểm là bà H cố tình khai báo không trung thực.

    Xét thấy, việc kiểm tra sức khỏe định kỳ được các cơ quan, tổ chức thực hiện một cách thường xuyên và định kỳ. Khi tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ, người được khám không biết và không buộc phải biết tổ chức khám chữa bệnh đã tiến hành các biện pháp, phương pháp gì. Hơn nữa, khi kiểm tra sức khỏe định kỳ bà H không phát hiện dấu hiệu của một căn bệnh nào dẫn đến việc Công ty C từ chối ký kết hợp đồng với bà H. Do đó, không đủ cơ sở xác định bà H cảm thấy cơ thể bất thường mới tiến hành đi xét nghiệm máu sau đó mua bảo hiểm của Công ty C.

    Như vậy, chưa đủ cơ sở xác định bà H có gian dối khi ký hợp đồng bảo hiểm, không có cơ sở xác định việc bà H đánh dấu vào ô không của mục 54 và 61 tại Đơn yêu cầu bảo hiểm làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc Công ty C có xem xét để ký hợp đồng bảo hiểm với bà H hay không.

    2. Phân tích tình huống

    Điểm b khoản 2 Điều 18 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định:

    “2. Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ:

    b) Kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm.”

    Như vậy, nghĩa vụ cung cấp thông tin của người mua bảo hiểm lệ thuộc vào yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm.

    Trong tình huống này, trong câu hỏi mà công ty C đưa ra liên quan đến nội dung người mua bảo hiểm có bị rối loạn tại dạ dày hay không và bà H trả lời là không. Tuy nhiên, thực tế bà H lại có tiền sử đau dạ dày. Câu hỏi đặt ra là tiền sử đau dạ dày và rối loạn tại dạ dày có là một hay không. Công ty C cho rằng cụm từ “rối loạn tại dạ dày” bao gồm tất cả các bệnh liên quan đến dạ dày trong đó có đau dạ dày, do đó công ty C cho rằng hợp đồng bảo hiểm không có hiệu lực và từ chối trả tiền bảo hiểm. Tuy nhiên, phía người mua bảo hiểm cho rằng đau dạ dày và rối loạn tại dạ dày là hai khái niệm khác nhau, không có bất kỳ tài liệu, chứng cứ nào chứng tỏ bệnh đau dạ dày chính là rối loạn tại dạ dày. Như vậy, ở đây các bên hiểu không thống nhất với nhau về việc đau dạ dày có nằm trong nội hàm của rối loạn tại dạ dày hay không. Điều này là do khái niệm rối loạn tại dạ dày mà công ty C đưa ra không rõ ràng.

    Điều 21 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định: “Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm có điều khoản không rõ ràng thì điều khoản đó được giải thích theo hướng có lợi cho bên mua bảo hiểm.”

    Trong trường hợp này, các câu hỏi về tình trạng sức khỏe và các câu trả lời phải được coi là một bộ phận của hợp đồng bảo hiểm, bởi lẽ việc trả lời các câu hỏi đó là căn cứ để xác định hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm và trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong việc thanh toán tiền bảo hiểm. Câu hỏi về “rối loạn tại dạ dày” mà công ty C đưa ra là không rõ ràng, do đó, câu hỏi này sẽ được giải thích theo hướng có lợi cho bên mua bảo hiểm, tức là, “rối loạn tại dạ dày” không bao gồm “đau dạ dày”. Như vậy, bên mua bảo hiểm trả lời “không” đối với câu hỏi này không được coi là bên mua bảo hiểm đã kê khai, trả lời không trung thực.

    Theo hướng giải quyết của án lệ trong trường hợp này, ta có thể kết luận như sau: Trường hợp khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm trả lời các câu hỏi về tình trạng sức khỏe mà câu hỏi không rõ ràng thì việc giải thích các câu hỏi đó để xác định câu trả lời của bên mua bảo hiểm có trung thực hay không phải theo hướng có lợi cho bên mua bảo hiểm.

    Một tình tiết khác trong vụ tranh chấp này như sau, trong đơn yêu cầu bảo hiểm có nội dung câu hỏi: “Trong vòng 5 năm trở lại đây, ông, bà đã có làm xét nghiệm chẩn đoán như X-quang, siêu âm, điện tim đồ, thử máu, sinh thiết? Hoặc ốm đau, bệnh tật khám y khoa, điều trị tại bệnh viện nhưng chưa được nêu ở phần trên không?” và bà H đánh dấu vào ô không. Tuy nhiên trên thực tế, bà H có phiếu xét nghiệm hóa sinh máu được tiến hành trong khuôn khổ khám sức khỏe kiểm tra định kỳ tại nơi làm việc. Từ đó, công ty C cho rằng, bà H có xét nghiệm máu nhưng không khai báo tại câu hỏi này là cố tình khai bảo không trung thực. Công ty C cho rằng hợp đồng bảo hiểm không có hiệu lực và từ chối thanh toán tiền bảo hiểm.

    Điểm a khoản 2 Điều 19 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định:

    “2. Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có một trong những hành vi sau đây:

    a) Cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường.”

    Theo quy định này, công ty C chỉ được đơn phương đình chủ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng trong trường hợp đáp ứng cả 02 điều kiện là: (i) bà H cố ý cung cấp thông tin sai sự thật và (ii) nhằm mục đích giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường.

    Trong trường hợp này, tòa án nhận định rằng bà H không biết hoặc không buộc phải biết tổ chức khám chữa bệnh đã tiến hành các biện pháp, phương pháp gì, từ đó xác định rằng không phải bà H cung cấp thông tin không trung thực.

    Ngoài ra, tòa án còn dựa vào một căn cứ khác để xác định trách nhiệm của công ty C. Đó là các kết quả xét nghiệm mà bên mua bảo hiểm không cung cấp thông tin là không liên quan đến các bệnh lý mà công ty C dựa vào đó để có thể quyết định không giao kết hợp đồng bảo hiểm. Như vậy, dù bà H không thực hiện đúng yêu cầu cung cấp thông tin do công ty C đặt ra thì việc này vẫn chưa đủ để công ty C từ chối trả tiền bảo hiểm vì theo tòa án việc này không làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc công ty C có xem xét để ký hợp đồng bảo hiểm với bà H hay không.

    Theo hướng giải quyết của án lệ trong trường hợp này, ta có thể kết luận như sau: Trường hợp bên mua bảo hiểm trả lời chưa tiến hành các xét nghiệm chẩn đoán… trong khoảng thời gian được nêu tại câu hỏi nhưng trên thực tế bên mua bảo hiểm đã khám sức khỏe định kỳ mà không phát hiện dấu hiệu của căn bệnh nào để từ đó mua bảo hiểm và là căn cứ để doanh nghiệp bảo hiểm từ chối ký hợp đồng bảo hiểm thì không thể coi việc không cung cấp thông tin đó là cố tình khai báo không trung thực.

    KẾT LUẬN

    Như vậy, thông qua những phân tích về trách nhiệm cung cấp thông tin của các bên trong hợp đồng cũng như phân tích một tình huống trên thực tế, có thể khẳng định rằng, trách nhiệm cung cấp thông tin của người tham gia bảo hiểm trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm là điều kiện rất quan trọng để xác định tính hiệu lực của hợp đồng. Một khi các bên không tuân thủ nguyên tắc này sẽ phải chịu hậu quả pháp lý nhất định. Luật Kinh doanh bảo hiểm đã có những quy định về điều này nhằm hạn chế những hành vi trục lợi bảo hiểm. Tuy nhiên, qua quá trình áp dụng trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập đòi hỏi hệ thống pháp luật cùng các văn bản hướng dẫn phải điều chỉnh, giúp các bên tham gia bảo hiểm nắm rõ và vận dụng một cách có hiệu quả để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình.

    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 

    1. Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi bổ sung năm 2010.

    2. Trần Vũ Hải, Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ - Những vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006.

    3. Phạm Văn Tuyết, Bảo hiểm và kinh doanh bảo hiểm theo pháp luật Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2007.

    4. Trách nhiệm cung cấp thông tin của các bên trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm < https://thegioiluat.vn/bai-viet-hoc-thuat/Trach-nhiem-cung-cap-thong-tin-cua-cac-ben-trong-quan-he-hop-dong-bao-hiem-9462/ >

    5. PGS.TS. Nguyễn Thị Thủy, Nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 05 (405), tháng 3/2020.

    < http://www.lapphap.vn/Pages/TinTuc/210528/Nghia-vu-cung-cap-thong-tin-cua-ben-mua-bao-hiem-trong-hop-dong-bao-hiem-nhan-tho.html >

    6. Án lệ 22/2018/AL.

    7. Bản án dân sự phúc thẩm số 313/2016/DS-PT ngày 16/3/2016 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh.

    8. LS. TS. Lưu Tiến Dũng, Án Lệ Việt Nam – Phân Tích và Luận Giải, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2021.

    Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU

    Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

    Continue Reading



     MỞ ĐẦU

    Trong bối cảnh mở cửa và hội nhập hiện nay, Việt Nam ngày càng tiếp nhận nhiều nguồn vốn đầu tư kinh doanh từ cả trong và ngoài nước. Sự gia tăng về số lượng dự án, số vốn đầu tư, sự phong phú hơn hình thức đầu tư, đối tác đầu tư và lĩnh vực đầu tư khiến cho các tranh chấp trong hoạt động đầu tư kinh doanh cũng diễn ra nhiều hơn.

    Trước tình hình đó, việc được nhà nước đảm bảo giải quyết tranh chấp trong hoạt động đầu tư kinh doanh là điều vô cùng quan trọng để thu hút nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước. 

    Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, sau đây em xin trình bày về đề tài: “Sưu tầm một vụ tranh chấp trong hoạt động đầu tư giữa nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan nhà nước có thẩm quyền tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, phân tích nguyên tắc bảo đảm giải quyết tranh chấp trong hoạt động đầu tư kinh doanh” để có một cái nhìn sâu sắc hơn về vấn đề này.

    NỘI DUNG

    I. Tóm tắt tranh chấp đầu tư giữa nhà đầu tư Công ty Dialasie (Pháp) và Chính phủ Việt Nam

    Tranh chấp đầu tư: Dialasie kiện Việt Nam

    Nguyên đơn: Dialasie (Pháp)

    Bị đơn: Chính phủ Việt Nam

    Luật áp dụng: Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam - Pháp năm 1992

    Quy tắc trọng tài: UNCITRAL

    Cơ quan xét xử: Tòa Trọng tài Thường trực (PCA)

    Nội dung tranh chấp như sau:

    Năm 2000, nhà đầu tư Pháp, công ty Dialasie được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy phép thành lập Phòng khám thận và lọc thận quốc tế Dialasie. Thời hạn hoạt động là 25 năm.

    Ngày 10/3/2001, Dialasie ký hợp đồng thuê tòa nhà có địa chỉ tại số 253 Điện Biên Phủ, Quận 3 Thành phố Hồ Chí Minh với Liên hiệp hợp tác xã thương mại Thành phố Hồ Chí Minh (Saigon Co-op).

    Trong quá trình hoạt động, Dialasie phát sinh mâu thuẫn với Saigon Co-op do Dialasie không thực hiện được nghĩa vụ thanh toán tiền nhà cho Saigon Co-op. Saigon Co-op đã đệ đơn kiện lên Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) sau khi DialAsie không trả tiền thuê nhà theo thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng thuê nhà.

    Ngày 03/02/2005, theo phán quyết trọng tài của VIAC, Dialasie thua kiện và phải thanh toán cho Saigon Co-op hơn 571.000 đô la; đồng thời, trong thời hạn 6 tháng, Bệnh viện DialAsie phải chuyển địa điểm mới.

    Sau đó, Dialasie khởi kiện Saigon Co-op tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và kháng cáo tại Tòa phúc thẩm – Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu hủy phán quyết của VIAC nhưng không được chấp nhận.

    Ngày 02/12/2005, Bộ Y tế có văn bản đề nghị Bệnh viện Dialasie ngừng tiếp nhận bệnh nhân mới và chuyển các bệnh nhân đang điều trị tới các trung tâm y tế khác để được điều trị.

    Ngày 15/8/2006, Dialasie bàn giao tòa nhà tại địa chỉ số 253 Điện Biên Phủ, quận 8 Thành phố Hồ Chí Minh cho Saigon Co-op, chấm dứt hoạt động dự án đầu tư.

    Nhà đầu tư Dialasie cho rằng mình bị đối xử không công bằng. Lấy lý do không được bảo hộ đầu tư tại Việt Nam, tháng 02/2011, Dialasie khởi kiện Chính phủ Việt Nam (bao gồm UBND Thành phố Hồ Chí Minh, Cục thi hành án Thành phố Hồ Chí Minh, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Y tế) ra Trọng tài Quốc tế LaHay – Hà Lan trên cơ sở Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam – Pháp năm 1992 yêu cầu bồi thường 47 triệu USD. 

    Trong đơn khởi kiện, Dialasie cho rằng: Việt Nam đã vi phạm nghĩa vụ đối xử công bằng và bình đẳng đối với Dự án đầu tư theo Điều 3 Hiệp định Đầu tư Việt – Pháp; Việt Nam không đảm bảo sự bảo vệ đầy đủ và an toàn cho Dự án đầu tư theo Điều 5 Hiệp định Đầu tư Việt – Pháp. Các biện pháp của nhà nước Việt Nam nêu trên là tước đoạt gián tiếp tài sản của nhà đầu tư. 

    Ngày 17/11/2014, tòa Trọng tài thường trực (PCA) tại LaHay – Hà Lan đã ban hành phán quyết của Hội đồng trọng tài bác bỏ toàn bộ các nội dung khiếu kiện của Dialasie. 

    Cụ thể, Hội đồng trọng tài đã phán quyết, Cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam không vi phạm Hiệp định khuyến khích đầu tư Pháp - Việt Nam, pháp luật Việt Nam và không có bất kỳ hoạt động sai phạm nào. Tất cả các hành động Saigon Co-op là tuân thủ theo quy định của pháp luật Việt Nam và hoạt động của đơn vị này không phải là hành động của Chính phủ Việt Nam.

    Hội đồng trọng tài quyết định: (i) Hội đồng trọng tài có thẩm quyền xét xử các khiếu kiện của Nguyên đơn Dialasie; (ii) Tất cả các khiếu kiện của Nguyên đơn DialAsie đối với Chính phủ Việt Nam hoàn toàn bị bác bỏ; (iii) Mỗi bên phải trả một nửa chi phí trọng tài và tự chịu các chi phí về luật sư của mình theo quy định tại Điều 38 của Quy tắc trọng tài UNCITRAL.

    Theo Phán quyết này, Hội đồng trọng tài đã bác bỏ toàn bộ các nội dung khiếu kiện của Nguyên đơn đối với Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Việt Nam không phải bồi thường cho Nguyên đơn DialAsie bất kỳ một khoản chi phí nào theo yêu cầu đòi bồi thường mà Nguyên đơn đã nêu trong Đơn khởi kiện. 

    II. Nguyên tắc bảo đảm giải quyết tranh chấp trong hoạt động đầu tư kinh doanh

    1. Khái niệm giải quyết tranh chấp trong hoạt động đầu tư kinh doanh

    Giải quyết tranh chấp trong hoạt động đầu tư kinh doanh là phương thức giúp giải quyết các tranh chấp về quyền, lợi ích và nghĩa vụ hợp pháp phát sinh giữa các chủ thể khi tham gia đầu tư vốn để thực hiện hoạt động kinh doanh bằng việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư.

    Các tranh chấp trong hoạt động đầu tư kinh doanh bao gồm:

    - Tranh chấp giữa các nhà đầu tư trong nước;

    - Tranh chấp giữa các tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài;

    - Tranh chấp giữa nhà đầu tư trong nước với cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam;

    - Tranh chấp giữa các tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài với cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam;

    - Tranh chấp giữa các nhà đầu tư trong đó có ít nhất một bên là nhà đầu tư nước ngoài hoặc tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

    2. Quy định của pháp luật về bảo đảm cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động đầu tư

    Sự đảm bảo của nhà nước đối với các hoạt động đầu tư không thể bao gồm sự đảm bảo về việc sẽ không có tranh chấp xảy ra trong quá trình thực hiện dự án đầu tư. Tuy nhiên, nhà nước có thể đảm bảo cho các nhà đầu tư một cơ chế giải quyết tranh chấp phù hợp với thông lệ quốc tế, đề cao quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư và đủ độ tin cậy cũng như độ an toàn về mặt thực thi các quyết định trong giải quyết tranh chấp về đầu tư.

    Luật Đầu tư 2020 đã kế thừa Luật Đầu tư 2005 và 2014, đưa ra cơ chế giải quyết tranh chấp áp dụng chung cho tất cả các nhà đầu tư không phân biệt quốc tịch. Cơ chế này được xây dựng dựa trên nguyên tắc đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các nhà đầu tư. Theo đó, Điều 14 Luật Đầu tư 2020 quy định các phương thức giải quyết tranh chấp trong hoạt động đầu tư bao gồm: thương lượng, hòa giải, trọng tài hoặc tòa án. Phương thức thương lượng, hòa giải được áp dụng trước, trường hợp không thể thương lượng hoặc hòa giải thì tranh chấp được giải quyết tại Tòa án hoặc Trọng tài.

    Sự khác biệt giữa các chủ thể của tranh chấp dẫn đến sự khác biệt về cơ quan giải quyết tranh chấp, cụ thể (khoản 2, 3, 4 Điều 14 Luật Đầu tư 2020):

    (1) Tranh chấp giữa các nhà đầu tư trong nước, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hoặc giữa nhà đầu tư trong nước, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài với cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam được giải quyết thông qua Trọng tài Việt Nam hoặc Tòa án Việt Nam, trừ trường hợp tại mục (2).

    (2) Tranh chấp giữa các nhà đầu tư trong đó có ít nhất một bên là nhà đầu tư nước ngoài hoặc tổ chức kinh tế quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 23 của Luật Đầu tư 2020 được giải quyết thông qua một trong những cơ quan, tổ chức sau đây: Tòa án Việt Nam; Trọng tài Việt Nam; Trọng tài nước ngoài; Trọng tài quốc tế; Trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập.

    (3) Tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam được giải quyết thông qua Trọng tài Việt Nam hoặc Tòa án Việt Nam, trừ trường hợp có thỏa thuận khác theo hợp đồng hoặc điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.

    Như vậy, trong khuôn khổ, giới hạn chung mà Nhà nước Việt Nam đặt ra, các bên tranh chấp có thể lựa chọn một cách linh hoạt nhất phương thức và cơ quan giải quyết tranh chấp cho mình nhằm đạt được hiệu quả cao nhất của việc giải quyết tranh chấp. Đối với trường hợp tranh chấp giữa cơ quan quản lí nhà nước Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài, Nhà nước Việt Nam cũng cam kết không bó buộc các nhà đầu tư nước ngoài phải lựa chọn tòa án Việt Nam hoặc trọng tài Việt Nam để giải quyết nếu một điều ước quốc tế hoặc một thỏa thuận nào đó giữa đại diện cơ quan nhà nước có thẩm quyền kí với nhà đầu tư nước ngoài cho phép được lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp khác.

    Bên cạnh việc quy định rõ về phương thức và cơ quan giải quyết tranh chấp, pháp luật Việt Nam còn quy định cụ thể về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của các cơ quan giải quyết tranh chấp của Việt Nam. Có thể khẳng định rằng, Nhà nước Việt Nam đã đưa ra được cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các bên trong quan hệ đầu tư khá hoàn chỉnh và phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như lợi ích của các nhà đầu tư, ngay cả trong quan hệ tranh chấp mà một bên là các nhà đầu tư và một bên là cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Nhà nước Việt Nam.

    3. Bảo đảm giải quyết tranh chấp đầu tư kinh doanh trong tranh chấp Dialasie – Việt Nam

    Tranh chấp đầu tư giữa Dialasie và Chính phủ Việt Nam ban đầu bắt nguồn từ tranh chấp thương mại giữa Dialasie và Saigon Co-op do công ty Dialasie không trả tiền thuê nhà cho Saigon Co-op. Tranh chấp này đã được giải quyết tại Trọng tài theo thỏa thuận trọng tài của hai bên. Điều này là hoàn toàn phù hợp với quy định của Luật Thương mại 2005 và Pháp lệnh về trọng tài thương mại 2003 có hiệu lực tại thời điểm đó.

    Bởi vì công ty Dialasie thua kiện và cảm thấy không hài lòng với phán quyết trọng tài nên đã cố tình đưa vụ kiện này ra dưới dạng kiện Chính phủ Việt Nam theo cáo buộc rằng Saigon Co-op là một doanh nghiệp có vốn nhà nước, và vì vậy nên được coi là một phần của Chính phủ Việt Nam, và các hành vi của Saigon Coop trong trường hợp này được coi là hành vi của Chính phủ Việt Nam. Cùng với việc Bộ Y tế ra văn bản đề nghị Dialasie ngừng tiếp nhận bệnh nhân và di chuyển bệnh nhân cũ đi các cơ sở khám chữa bệnh khác, Dialasie cho rằng chính phủ Việt Nam đã có những đối xử không công bằng, không thỏa đáng, vi phạm các nghĩa vụ của Chính phủ Việt Nam đối với nhà đầu tư trong khuôn khổ Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam – Pháp.

    Khoản 4 Điều 12 Luật Đầu tư 2005 quy định: “Tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam liên quan đến hoạt động đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam được giải quyết thông qua Trọng tài hoặc Toà án Việt Nam, trừ trường hợp có thỏa thuận khác trong hợp đồng được ký giữa đại diện cơ quan nhà nước có thẩm quyền với nhà đầu tư nước ngoài hoặc trong điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.”

    Khoản 2 Điều 8 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Pháp 1992 quy định: “Nếu sự tranh chấp không giải quyết được trong thời hạn 6 tháng kể từ khi vụ tranh chấp được một trong hai Bên nêu ra, thì theo yêu cầu của một Bên, vụ tranh chấp sẽ được đưa ra Trọng tài. Vụ tranh chấp được giải quyết theo bản qui định về Trọng tài của Uỷ ban Liên hiệp quốc về luật thương mại quốc tế được Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua trong Nghị quyết 31/98 ngày 15/12/1976.”

    Như vậy, việc Dialasie đưa vụ kiện ra Tòa trọng tài Quốc tế PCA là phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt – Pháp 1992.

    Vụ kiện này là một minh chứng tiêu biểu cho cam kết bảo đảm giải quyết tranh chấp trong đầu tư kinh doanh của Việt Nam, đặc biệt là đối với nhà đầu tư nước ngoài. Bằng các quy định cụ thể, nhà nước Việt Nam đảm bảo các tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư kinh doanh có thể được giải quyết thông qua các phương thức pháp luật quy định. Nhà nước Việt Nam cũng đảm bảo cho các nhà đầu tư được linh hoạt lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp trong phạm vi pháp luật cho phép. Đối với các tranh chấp mà một bên là cơ quan nhà nước, pháp luật cũng quy định rõ ràng phương thức giải quyết tranh chấp, đảm bảo sự rõ ràng, minh bạch và công bằng trong mối quan hệ giữa nhà nước và nhà đầu tư.

    4. Vai trò của việc bảo đảm cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động đầu tư

    Việc bảo đảm cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động đầu tư đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút đầu tư của nước ta. Nó góp phần tạo nên một môi trường đầu tư bình ổn, giúp các nhà đầu tư yên tâm khi thực hiện đầu tư, giúp đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư. Đồng thời, quy định này cũng thể hiện thái độ thiện chí và các nỗ lực của nhà nước trong việc mời gọi các nhà đầu tư, giúp các nhà đầu tư cảm thấy an toàn hơn khi đầu tư.

    Tuy vậy, cũng có một số trường hợp, các nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng quy định về bảo đảm đầu tư để biến các vụ tranh chấp thương mại thông thường thành các vụ tranh chấp đầu tư giữa nhà đầu tư nước ngoài và Chính phủ Việt Nam như trong trường hợp công ty Dialasie nêu trên. Điều đó gây ảnh hưởng đến uy tín của nhà nước Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư quốc tế, đồng thời gây tốn tiền bạc, thời gian và công sức để theo đuổi các vụ kiện.

    KẾT LUẬN

    Trong bối cảnh các tranh chấp đầu tư ngày càng gia tăng, việc bảo đảm giải quyết tranh chấp trong hoạt động đầu tư là vô cùng quan trọng để thu hút nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước. Các quy định về bảo đảm giải quyết tranh chấp trong hoạt động đầu tư theo quy Luật Đầu tư 2020 về cơ bản đã hoàn thiện và phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy vậy, hiệu quả việc thực thi pháp luật trên thực tế cần phải được nâng cao hơn nữa để hạn chế thấp nhất các tranh chấp xảy ra, đặc biệt là các tranh chấp giữa cơ quan nhà nước và các nhà đầu tư. 

    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

    1. Luật Đầu tư 2020

    2. Luật Đầu tư 2005

    3. Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam - Pháp năm 1992

    4. Pháp lệnh về trọng tài thương mại 2003

    5. Quyết định 14/2020/QĐ-TTg ban hành quy chế phối hợp giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế

    6. Bộ Tư pháp (2015), Thông cáo báo chí công tác tư pháp quý IV năm 2014

    7. Julien Chaisse, ‎Luke Nottage (2018), International Investment Treaties and Arbitration Across Asia

    8. Hà Phương Thảo (2015), Tranh chấp đầu tư quốc tế và bài học kinh nghiệm, Báo Pháp luật Việt Nam, https://baophapluat.vn/tranh-chap-dau-tu-quoc-te-va-bai-hoc-kinh-nghiem-post198932.html (truy cập ngày 03/11/2021)

    9. Kiều Thị Thùy Linh (2009), Thực trạng và phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo đảm đầu tư của Việt Nam theo quy định của WTO, Luận văn thạc sĩ luật học

    10. Mahdev Mohan, Chester Brown (2021), The Asian Turn in Foreign Investment

    11. Nguyễn Thị Ánh Nguyệt (2017), Các biện pháp bảo đảm, ưu đãi và hỗ trợ đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014, luận văn thạc sĩ Luật học

    12. Tâm Lụa (2015), Lần thứ hai, Việt Nam thắng kiện quốc tế, Tuổi Trẻ Online, https://tuoitre.vn/lan-thu-hai-viet-nam-thang-kien-quoc-te-693636.htm (truy cập ngày 01/11/2021)

    13. Thái Sơn (2015), Việt Nam tiếp tục thắng kiện tại tòa quốc tế, Thanh Niên, https://thanhnien.vn/viet-nam-tiep-tuc-thang-kien-tai-toa-quoc-te-post440309.html (truy cập ngày 02/11/2021)

    14. Võ Phương, Sơn Bách (2014), Toà án La Haye phán quyết Chính phủ Việt Nam thắng kiện vụ DialAsie, Vietnamplus, https://www.vietnamplus.vn/toa-an-la-haye-phan-quyet-chinh-phu-viet-nam-thang-kien-vu-dialasie/299733.vnp (truy cập ngày 01/11/2021)

    Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU

    Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

    Continue Reading

     

    MỞ ĐẦU

    Hợp tác xã là một hình thức tổ chức kinh tế tập thể đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế ở nhiều quốc gia. Ở Việt Nam, kinh tế hợp tác xã được quan tâm phát triển ngay từ những ngày đầu giành độc lập. Trải qua những thời kì khó khăn, tưởng chừng như không thể tồn tại được, đến nay, với sự quan tâm của Đảng và nhà nước, hợp tác xã đang dần lấy lại vị thế của mình và đóng vai trò tích cực trong sự phát triển kinh tế - xã hội. 

    Nhận thức được tầm vai trò của hợp tác xã trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, sau đây em xin trình bày về đề tài: “Quy chế thành viên hợp tác xã theo quy định pháp luật hiện hành” để có một cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về vấn đề này.

    NỘI DUNG

    I. Khái quát chung về hợp tác xã

    1. Khái niệm hợp tác xã

    Khoản 1 Điều 3 Luật Hợp tác xã 2012 định nghĩa: Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lí hợp tác xã.

    Việc Luật hợp tác xã 2012 xác định rõ hợp tác xã không phải là doanh nghiệp là bước tiến bộ về mặt luật pháp so với các Luật hợp tác xã trước đây. Quy định này của Luật hợp tác xã 2012 đã góp phần làm rõ hơn bản chất hợp tác xã là tổ chức kinh tế thuộc thành phần kinh tế tập thể, quản lý dân chủ, tự chịu trách nhiệm, đồng sở hữu hợp tác xã, hợp tác xã thành lập để hợp tác tương trợ nhau trong sản xuất, kinh doanh, đồng thời cũng phần làm giảm bớt số lượng doanh nghiệp núp dưới danh hợp tác xã và tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển mô hình kinh tế tập thể này.

    2. Đặc điểm của hợp tác xã

    Thứ nhất, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tập thể, có các thành viên là cá nhân hoặc tổ chức.

    Thứ hai, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc.

    Thứ ba, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân.

    Thứ tư, hợp tác xã được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm.

    Thứ năm, hợp tác xã thực hiện việc phân phối thu nhập cho các thành viên theo lao động, theo vốn góp và theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã.

    Thứ sáu, hợp tác xã được hưởng các chính sách bảo đảm, hỗ trợ và ưu đãi của nhà nước.

    3. Vai trò của hợp tác xã trong nền kinh tế thị trường

    * Đối với nền kinh tế:

    Hợp tác xã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành viên, trong đó có hoạt động kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của từng thành viên, từ đó tạo ra nguồn tăng trưởng, góp phần vào tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế, đem lại lợi ích kinh tế cho thành viên, xã hội và nhà nước, góp phần tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế ở địa phương.

    * Đối với nền chính trị:

    Tổ chức hợp tác xã làm dịu bớt mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, giữa giới chủ và lao động làm thuê, đồng thời làm dịu bớt sự cạnh tranh không cần thiết trên thị trường, nhất là đối với những người sản xuất nhỏ, giúp đoàn kết các thành viên. Do đó, hợp tác xã góp phần định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường.

    * Đối với xã hội:

    Hoạt động của hợp tác xã bổ sung cho những nỗ lực vĩ mô của nhà nước như cấp vốn cho người nghèo, tạo công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, ổn định tình hình trật tự kinh tế, chính trị, xã hội… Tổ chức hợp tác xã phát triển sâu rộng góp phần hình thành nên giá trị hợp tác được xã hội thừa nhận, trở thành giá trị định hướng cho toàn xã hội: trung thực, đoàn kết, công bằng, dân chủ, chăm lo cho mình và cho cả người khác. Từ đó góp phần ổn định và phát triển chung của toàn xã hội.

    II. Chế độ pháp lí thành viên hợp tác xã

    1. Quy định về điều kiện trở thành thành viên hợp tác xã

    a) Điều kiện về tư cách chủ thể

    Điểm a Khoản 1 Điều 13 Luật hợp tác xã 2012 quy định về điều kiện về tư cách chủ thể để trở thành thành viên của hợp tác xã như sau: Cá nhân là công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam, từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; hộ gia đình có người đại diện hợp pháp theo quy định của pháp luật; cơ quan, tổ chức là pháp nhân Việt Nam.

    * Đối với cá nhân:

    Cá nhân muốn trở thành thành viên hợp tác xã phải đáp ứng các yêu cầu là công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam, từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. 

    So với quy định của Luật hợp tác xã 2003, Luật hợp tác xã 2012 đã mở rộng thêm đối tượng người nước ngoài. Theo đó, “người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam, từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ” được tham gia hợp tác xã. Quy định này tạo điều kiện cho cá nhân nước ngoài cư trú ở Việt Nam nếu có nhu cầu góp vốn, góp sức có thể tham gia vào hợp tác xã, đồng thời cũng tạo thêm khả năng phát triển của hợp tác xã khi có điều kiện giao lưu với nước ngoài. Điều này phù hợp với nguyên tắc hợp tác xã kết nạp rộng rãi thành viên, đồng thời tạo điều kiện cho hợp tác xã thu hút các nguồn vốn khác nhau và phù hợp tiến trình hội nhập quốc tế.

    Luật cán bộ, công chức 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) và Luật phòng chống tham nhũng 2018 quy định cán bộ, công chức không được thành lập, tham gia thành lập hoặc tham gia quản lý, điều hành, nhưng có thể trở thành thành viên của hợp tác xã nếu có đủ điều kiện.

    * Đối với hộ gia đình:

    Hộ gia đình có thể trở thành thành viên hợp tác xã là hộ gia đình mà các thành viên trong hộ có tài sản chung để hoạt động kinh tế như diện tích đất sử dụng vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, những tài sản cổ định khác phục vụ sản xuất, kinh doanh của hộ gia đình. Hộ gia đình phải cử người đại diện bằng giấy ủy quyền. Người đại diện của hộ gia đình phải có đủ các điệu kiện như đối với cá nhân theo quy định của pháp luật và Điều lệ của hợp tác xã. 

    Khi đáp ứng các điều kiện trên, hộ gia đình có thể trở thành thành viên hợp tác xã, trừ hợp tác xã tạo việc làm. Việc hộ gia đình có thể trở thành thành viên hợp tác xã đã ghi nhận vai trò của kinh tế hộ gia đình, hình thức sản xuất vừa và nhỏ phù hợp với tập quán làm ăn trong nông, lâm, ngư nghiệp và các ngành nghề khác ở nước ta.

    * Đối với pháp nhân Việt Nam:

    Luật hợp tác xã quy định tổ chức muốn trở thành thành viên hợp tác xã, tổ chức phải là pháp nhân.

    Theo Khoản 1 Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015, một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:

    - Được thành lập theo quy định của luật

    - Có cơ cấu tổ chức theo quy định của luật

    - Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình

    - Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.

    b) Điều kiện về ý chí chủ thể

    Các chủ thể nêu trên nếu tán thành điều lệ hợp tác xã, tự nguyện làm đơn xin gia nhập hợp tác xã, được Hội đồng quản trị xét kết nạp và Đại hội thành viên thông qua sẽ trở thành thành viên hợp tác xã.

    Theo quy định tại Khoản 1 Điều 13 Luật hợp tác xã 2012, khi muốn gia nhập hợp tác xã, thành viên phải có nhu cầu hợp tác với các thành viên và nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã, có đơn tự nguyện gia nhập và góp vốn vào hợp tác xã.

    Việc gia nhập hợp tác xã của mỗi cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân là hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện, không bị cưỡng chế, cưỡng ép. Mọi cá nhân không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo, thành phần giai cấp, mọi hộ gia đình, mọi pháp nhân đủ điều kiện theo quy định của pháp luật, tán thành điều lệ hợp tác xã đều có quyền gia nhập hợp tác xã.

    Khi thành viên thấy việc tham gia hợp tác xã không còn cần thiết, thành viên có quyền làm đơn tự nguyện xin ra khỏi hợp tác xã và được hưởng các quyền lợi, cũng như có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ còn lại theo điều lệ của hợp tác xã.

    Hợp tác xã do chính các thành viên tự nguyện góp vốn lập ra, nhằm đáp ứng những yêu cầu chung, lợi ích chung do chính mình đặt ra. Yếu tố tự nguyện sẽ quyết định mọi thành công trong hoạt động của hợp tác xã. Mọi sự ép buộc sẽ làm suy giảm tính tích cực, sáng tạo, chủ động của thành viên đối với việc xây dựng hợp tác xã.

    2. Quy định về quyền và nghĩa vụ của thành viên hợp tác xã

    a) Quyền của thành viên hợp tác xã

    Theo Điều 14 Luật hợp tác xã 2012, thành viên hợp tác xã có các quyền sau:

    - Quyền được hợp tác xã cung ứng sản phẩm, dịch vụ 

    Với mục đích hoạt động lấy lợi ích của thành viên làm trung tâm, hợp tác xã trước khi cung ứng sản phẩm, dịch vụ ra thị trường cần đảm bảo đáp ứng nhu cầu trong nội bộ hợp tác xã. Do đó, việc hợp tác xã cung ứng sản phẩm, dịch vụ cho những cá nhân, tổ chức không phải thành viên hợp tác xã chỉ được coi là thứ yếu, tỉ lệ cung cấp ra thị trường hay sử dụng lao động ngoài thị trường cũng bị pháp luật hạn chế ở mức: không quá 50% tổng giá trị cung ứng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đối với lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp; đối với trường hợp hợp tác xã tạo việc làm, tiền lương trả cho người lao động không phải là thành viên với hợp đồng lao động không xác định thời hạn không quá 30% tổng tiền lương của hợp tác xã chi trả cho tất cả người lao động trong hợp tác xã với hợp đồng không xác định thời hạn. 

    Quyền yêu cầu hợp tác xã cung ứng dịch vụ, sản phẩm theo nhu cầu trên cơ sở hợp đồng dịch vụ của thành viên hợp tác xã là quyền mới dành cho thành viên mà Luật hợp tác xã 2003 chưa đề cập đến. Điều này hoàn toàn phù hợp bởi lẽ hợp tác xã được hình thành xuất phát từ nhu cầu đáp ứng lợi ích của các thành viên, hợp tác xã hoạt động để đáp ứng nhu cầu của thành viên, nhiệm vụ của hợp tác xã là chăm lo, quan tâm đến các thành viên của mình.

    Tuy nhiên, hiện nay Luật cũng không quy định rõ về “nhu cầu” mà hợp tác xã phải hoàn thành với thành viên được xác định theo cơ chế nào (có phải đăng kí trước để tránh nhu cầu phát sinh không). Do đó trong thực tế, điều lệ hợp tác xã hoặc quy chế nội bộ cần quy định rõ nhằm giảm thiểu rủi ro, mâu thuẫn giữa hợp tác xã với thành viên, tránh phá vỡ tính hợp tác bền vững của hợp tác xã.

    - Quyền được hưởng thu nhập từ hợp tác xã

    Nếu như trong doanh nghiệp, lợi nhuận thu được được phân chia cho các thành viên chủ yếu theo tỉ lệ vốn góp thì trong hợp tác xã, thu nhập phân chia chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã. Trong hợp tác xã, thành viên nào sử dụng nhiều sản phẩm, dịch vụ do hợp tác xã cung ứng thì được hưởng nhiều thu nhập hơn. Sau khi phân chia lợi nhuận theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã, phần lợi nhuận còn lại sẽ được phân chia tiếp cho các thành viên hợp tác xã theo tỉ lệ vốn góp của từng thành viên vào hợp tác xã.

    - Quyền được hưởng các phúc lợi của hợp tác xã

    Phúc lợi là khoản thù lao gián tiếp trả dưới dạng hỗ trợ về cuộc sống dành cho người lao động. Chế độ phúc lợi của hợp tác xã là những chương trình được thực hiện để trợ giúp những người khi trở thành thành viên của hợp tác xã. Chúng có thể bao gồm: phụ cấp tiền ăn học cho con em các gia đình là thành viên hợp tác xã chưa đến 18 tuổi, chăm lo đời sống tinh thần, vui chơi, giải trí, chế độ tử tuất…

    - Quyền được tham gia quản lí hợp tác xã 

    Quy định pháp luật về quyền quản lí hợp tác xã dựa trên nguyên tắc bình đẳng, dân chủ của các thành viên hợp tác xã. Theo đó, yếu tố vốn góp không có sự chi phối tới “tiếng nói” của các thành viên trong hợp tác xã. Việc thông qua các quyết định của hợp tác xã dựa trên nguyên tắc đa số thành viên biểu quyết. Mỗi thành viên tham dự đại hội thành viên đều có một phiếu biểu quyết. Phiếu biểu quyết có giá trị ngang nhau, không phụ thuộc vào số vốn góp hay chức vụ của thành viên. Thành viên được tham dự đại hội thành viên hợp tác xã, ứng cử hoặc đề cử các thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên và các chức danh khác được bầu của hợp tác xã.

    - Quyền giám sát hoạt động của hợp tác xã

    Thành viên hợp tác xã được kiến nghị, yêu cầu người quản lí của hợp tác xã phải giải trình về hoạt động quản lí hợp tác xã, yêu cầu hội đồng quản trị, ban kiểm soát (kiểm soát viên) triệu tập đại hội thành viên bất thường. Nhóm thành viên đại diện ít nhất một phần ba tổng số thành viên hợp tác xã có quyền triệu tập đại hội thành viên. Như vậy, bên cạnh ban kiểm soát làm việc chuyên trách, từng cá thể là thành viên hợp tác xã cũng được ghi nhận quyền này, đảm bảo vị trí “làm chủ” của mình.

    - Quyền được cung cấp thông tin cần thiết liên quan đến hoạt động của hợp tác xã; được hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ nghiệp vụ 

    Đây là một trong những quyền lợi cơ bản của thành viên hợp tác xã cũng là nghĩa vụ cơ bản của hợp tác xã đối với thành viên. Hợp tác xã phải đảm bảo được không chỉ chức năng kinh tế thông qua việc phân phối thu nhập cho các thành viên mà còn phải đảm bảo được chức năng xã hội của mình. Có nghĩa, lợi ích nhận được của thành viên hợp tác xã không chỉ là lợi ích về kinh tế mà còn là những lợi ích phi vật chất khác. Tuy nhiên, để quyền này được tôn trọng và thực thi trên thực tế, Nhà nước cần có những cơ chế giám sát, chế tài rõ ràng đối với các hợp tác xã.

    - Quyền được tự nguyện ra khỏi hợp tác xã

    Với nguyên tắc tự nguyện, các thành viên có quyền ra khỏi hợp tác xã nếu có yêu cầu. Trong mọi trường hợp, khi ra khỏi hợp tác xã, thành viên hợp tác xã đều được hợp tác xã trả lại vốn góp nhằm đảm bảo quyền lợi về mặt tài sản cho thành viên. Khi ra khỏi hợp tác xã, thành viên hợp tác xã được chia giá trị tài sản theo giá trị vốn góp. Tài sản hoặc giá trị phần vốn góp không chia được thì chuyển nhượng cho người khác. Nếu không chuyển nhượng được thì theo điều lệ của hợp tác xã quy định có thể được hợp tác xã mua lại.

    - Quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện theo quy định của pháp luật

    Quyền khiếu nại, tố cáo là những quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp 2013. Quyền khiếu nại, tố cáo là thể hiện sự dân chủ trong hợp tác xã và là một trong những phương thức thực hiện quyền giám sát của thành viên đối với hoạt động của hợp tác xã. Đây là phương tiện để các thành viên trong hợp tác xã đấu tranh chống lại các hành vi trái pháp luật, chuyên quyền, quan liêu, nhằm bảo vệ lợi ích của hợp tác xã, của mình, thúc đẩy sự phát triển của hợp tác xã.

    Từ những phân tích trên, ta thấy, các quy định về quyền của thành viên hợp tác xã theo Luật hợp tác xã đã bảo đảm cho các thành viên phát huy tiềm năng về vốn, tài chính, kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh trong các lĩnh vực hoạt động của hợp tác xã. 

    b) Quy định về nghĩa vụ của thành viên hợp tác xã

    Trong các hợp tác xã, quyền và nghĩa vụ của thành viên tạo thành một thể thống nhất. Các thành viên hợp tác xã được hưởng các quyền chính đáng nhưng cũng phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định theo Điều 15 Luật Hợp tác xã 2012.

    - Nghĩa vụ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã

    Đối với hợp tác xã tạo việc làm, thành viên hợp tác xã chính là người lao động trong hợp tác xã. Đối với các hợp tác xã khác, thành viên hợp tác xã phải là khách hàng tiêu thụ sản phẩm, sử dụng dịch vụ của hợp tác xã. Luật hiện hành đã quy định cụ thể chế tài về việc thành viên liên tục không sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã trong thời gian 03 năm, không làm việc liên tục trong thời gian 02 năm (nếu điều lệ hợp tác xã không quy định thời gian ngắn hơn). Thông qua quy định này, có thể thấy rõ vai trò của thành viên hợp tác xã trong hoạt động của hợp tác xã

    - Nghĩa vụ góp vốn 

    Thành viên hợp tác xã có nghĩa vụ góp đủ vốn đã cam kết. Theo Luật hợp tác xã 2012, mức vốn góp của thành viên không vượt quá 20% vốn điều lệ của hợp tác xã (giảm so với 30% theo Luật hợp tác xã 2003). Việc quy định giảm tỉ lệ vốn góp của thành viên đã tạo ra sự công bằng hơn đối với các thành viên khi chia lợi nhuận.

    Thời hạn góp đủ vốn cam kết theo Luật hợp tác xã 2012 là không quá 06 tháng kể từ ngày được kết nạp hoặc từ ngày hợp tác xã được cấp giấy đăng ký kinh doanh, còn theo Luật hợp tác xã 2003 là 01 năm kể từ lần góp đầu (Khoản 3 Điều 14 Nghị định 177/2004/NĐ-CP). 

    Luật hợp tác xã 2012 không quy định về góp vốn lần đầu của thành viên nhưng lại rút ngắn thời gian góp đủ vốn cam kết góp vào hợp tác xã, việc quy định như vậy tạo điều kiện cho nhiều người có nhu cầu và mong muốn tham gia sản xuất kinh doanh trong hợp tác xã nhưng chưa có vốn cũng có thể trở thành thành viên của hợp tác xã. Tuy vậy, Luật hợp tác xã 2012 đã quy định rút ngắn thời gian góp đủ vốn nhằm đảm bảo hợp tác xã hoạt động có hiệu quả vì nếu kéo dài thời gian góp đủ vốn có thể làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của hợp tác xã do không đủ nguồn tài chính để hoạt động.

    - Nghĩa vụ chịu rủi ro trong phạm vi vốn góp vào hợp tác xã

    Đi cùng với việc hưởng lợi từ hoạt động sản xuất, kinh doanh thì các thành viên hợp tác xã cũng phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ, nghĩa vụ tài chính của hợp tác xã trong phạm vi vốn góp vào hợp tác xã.

    - Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do mình gây ra cho hợp tác xã

    Bồi thường thiệt hại bao gồm bồi thường thiệt hại về vật chất và bồi thường thiệt hại về tinh thần, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Hợp tác xã là một tổ chức có tư cách pháp nhân, mọi hành vi xâm phạm đến tái sản hay danh dự của hợp tác xã do thành viên hợp tác xã gây ra đều phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

    - Nghĩa vụ tuân thủ điều lệ và các quy chế nội bộ

    Hợp tác xã là tổ chức kinh tế thuộc thành phần kinh tế tập thể, có tư cách pháp nhân. Do đó, kể từ thời điểm được cấp giấy chứng nhận đăng kí, hợp tác xã có tư cách độc lập, có điều lệ hoạt động. Khi đó, một mặt, các thành viên hợp tác xã là đồng sở hữu tài sản hợp tác xã và cùng quản lí hợp tác xã. Mặt khác, các thành viên hợp tác xã cũng phải tuân thủ điều lệ và các quy chế nội bộ khác, mà thực chất chính là những văn bản pháp lí nội bộ do tập thể thành viên hợp tác xã ban hành.

    3. Quy định về việc chấm dứt tư cách thành viên hợp tác xã

    Chấm dứt tư cách thành viên hợp tác xã là việc kết thúc mối quan hệ giữa thành viên hợp tác xã với hợp tác xã, từ đó chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa hai bên. 

    Theo quy định tại Khoản 1 Điều 16 Luật hợp tác xã 2012, tư cách thành viên bị chấm dứt khi xảy ra một trong các trường hợp sau:

    (1) Thành viên hợp tác xã không đáp ứng yêu cầu về năng lực chủ thể tham gia vào hợp tác xã.

    Luật hợp tác xã 2012 quy định cụ thể các trường hợp đó là thành viên là cá nhân chết, bị tòa án tuyên bố là đã chết, mất tích, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị kết án phạt tù theo quy định của pháp luật; thành viên là hộ gia đình không có người đại diện hợp pháp theo quy định của pháp luật; thành viên là pháp nhân bị giải thể, phá sản; hợp tác xã bị giải thể, phá sản. 

    (2) Thành viên hợp tác xã tự nguyện ra khỏi hợp tác xã.

    Quy định này tạo điều kiện nhất định cho quyền tự nguyện của thành viên hợp tác xã khi cảm thấy việc duy trì tư cách xã viên hợp tác xã không còn phù hợp với họ thì họ có thể tự mình chấm dứt tư cách thành viên của mình.

    (3) Thành viên hợp tác xã bị khai trừ ra khỏi hợp tác xã.

    Thành viên của hợp tác xã bị khai trừ là sự kiện đưa thành viên đó ra khỏi hợp tác xã, không công nhận thể nhân, pháp nhân đó là thành viên hợp tác xã. Luật hợp tác xã 2012 chỉ quy định thành viên bị khai trừ theo quy định của điều lệ mà không nêu rõ lý do khai trừ cụ thể.

    Thẩm quyền khai trừ thành viên hợp tác xã thuộc về Hội đồng quản trị nhưng phải có báo cáo cho Đại hội thành viên vào kỳ họp gần nhất. Thành viên hợp tác xã khi bị khai trừ phải được biết lý do bị khai trừ của mình, được nhận quyết định bằng văn bản của Hội đồng quản trị về việc khai trừ thành viên và Biên bản hoặc nghị quyết của Đại hội thành viên về việc khai từ thành viên hợp tác xã.

    (4) Thành viên hợp tác xã không sử dụng sản phẩm, dịch vụ trong thời gian liên tục theo quy định của điều lệ nhưng không quá 03 năm (đối với hợp tác xã việc làm là không quá 02 năm).

    Đây là trường hợp chấm dứt tư cách thành viên bổ sung so với Luật hợp tác xã 2003. Nếu một thành viên không sử dụng sản phẩm, dịch vụ trong thời gian dài thì không thể giúp hợp tác xã phát triển, cũng không được chia lợi nhuận và cũng không thực hiện nghĩa vụ của mình, do đó sẽ bị chấm dứt tư cách thành viên.

    (5) Tại thời điểm cam kết góp đủ vốn, thành viên hợp tác xã không góp vốn hoặc góp vốn thấp hơn vốn góp tối thiểu quy định trong điều lệ.

    Luật hợp tác xã 2012 xác định rõ góp vốn là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi thành viên khi tham gia vào hợp tác xã. Vì vậy, việc không thực hiện đúng hay đầy đủ nghĩa vụ thành viên của mình sẽ là căn cứ để hợp tác xã chấm dứt tư cách thành viên của chính thành viên đó.

    III. Một số bất cập của quy chế pháp lý hiện hành về thành viên hợp tác xã

    1. Về việc phân loại thành viên hợp tác xã

    Luật hợp tác xã 2012 chưa có quy định về việc phân loại thành viên hợp tác xã. Việc phân loại thành viên hợp tác xã vô cùng hữu ích khi xác định đối tượng được hưởng ưu đãi hoặc xác định tỷ lệ giá trị giao dịch giữa hợp tác xã với thành viên của hợp tác xã.

    Theo Luật Hợp tác xã Quebec của Canada, thành viên hợp tác xã được chia thành hai loại: thành viên chính thức và thành viên liên kết. Thành viên hợp tác xã chính thức là những người trực tiếp sử dụng dịch vụ của hợp tác xã. Thành viên hợp tác xã liên kết là người trung gian giữa hợp tác xã và người trực tiếp sử dụng dịch vụ của hợp tác xã. Thành viên liên kết được sử dụng dịch vụ của hợp tác xã, được phân phối thặng dư theo mức độ sử dụng dịch vụ nhưng không được quyền biểu quyết, không có quyền tham gia vào hội đồng quản trị hay ban kiểm soát.

    2. Về điều kiện trở thành thành viên hợp tác xã đối với hộ gia đình

    Đối với đối tượng tham gia hợp tác xã là cá nhân người nước ngoài và pháp nhân Việt Nam, Chính phủ có quy định hướng dẫn chi tiết về điều kiện tham gia hợp tác xã trong Nghị định 193/2013/NĐ-CP. Tuy nhiên, các quy định này còn chưa cụ thể về điều kiện hộ gia đình và đặc biệt là quy định về điều kiện người đại diện hộ gia đình tại hợp tác xã.

    3. Về phân phối thu nhập

    Việc phân phối thu nhập của hợp tác xã theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ thể hiện đúng bản chất của hợp tác xã. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy bên cạnh việc khuyến khích thành viên hợp tác xã sử dụng dịch vụ của hợp tác xã, việc khuyến khích thành viên góp vốn, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp cũng cần được quan tâm.

    Điểm a Khoản 3 Điều 46 Luật Hợp tác xã 2012 quy định: “Chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên, hợp tác xã thành viên; theo công sức lao động đóng góp của thành viên đối với hợp tác xã tạo việc làm…”. Việc điều luật sử dụng từ “chủ yếu” chưa thực sự hợp lý mà nên thay thế bằng từ khác để cân bằng việc phân phối thu nhập theo cả vốn góp và công sức.

    4. Về quyền được cung cấp thông tin cần thiết liên quan đến hoạt động của hợp tác xã

    Khoản 3 Điều 7 Luật hợp tác xã 2012 quy định: thành viên được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác về hoạt động sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối thu nhập và những nội dung khác theo quy định của điều lệ.

    Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy, trong thời gian qua đã xảy ra không ít vi phạm quyền tiếp cận thông tin của thành viên như: HTX gây khó khăn trong việc thành viên thực hiện quyền của mình hoặc các HTX công bố thông tin không chính xác hoặc không hết nội dung, có những nội dung mập mờ khiến thành viên đánh giá không đúng về HTX… Có thể lý giải hiện tượng này là Luật Hợp tác xã năm 2012 và các văn bản hướng dẫn đều chưa làm rõ quyền này, cụ thể: Chưa xác định rõ ràng thông tin nào cần được cung cấp, cần được báo cáo, thông tin nào thuộc về bí mật của HTX; chưa hướng dẫn cách thức thực hiện, chế tài xử lý chưa rõ ràng trong trường hợp người quản lý HTX không cung cấp hoặc cung cấp không kịp thời, không chính xác thông tin về hoạt động sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối thu nhập và những nội dung khác theo quy định của điều lệ theo yêu cầu của thành viên HTX.

    5. Về quyền tham gia quản lý hợp tác xã

    Điều 31 Luật Hợp tác xã năm 2012 quy định: “Đại hội thành viên thường niên phải được họp trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày kết thúc năm tài chính do hội đồng quản trị triệu tập. Đại hội thành viên bất thường do hội đồng quản trị, ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên hoặc thành viên đại diện của ít nhất một phần ba tổng số thành viên, hợp tác xã thành viên triệu tập theo quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều này”. 

    Quy định này xét về mặt tổng thể là hoàn toàn hợp lý nhưng trong thời gian qua, hội đồng quản trị của nhiều HTX không tổ chức đại hội thành viên hằng năm theo quy định đã dẫn đến hiện tượng xung đột lợi ích giữa thành viên với hội đồng quản trị. Luật Hợp tác xã 2012 chưa có quy định về nghĩa vụ và trách nhiệm của hội đồng quản trị trong trường hợp hội đồng quản trị không triệu tập họp đại hội thành viên.

    Sự phát triển của các HTX phụ thuộc rất lớn vào đạo đức kinh doanh, kiến thức và khả năng cũng như tinh thần trách nhiệm của đội ngũ những người quản lý, điều hành HTX. Tuy nhiên, Luật Hợp tác xã 2012 chưa có những quy định về nghĩa vụ trung thực, cẩn trọng, trung thành của người quản lý và cơ chế pháp lý nào buộc những người quản lý phải tuân thủ những nghĩa vụ này. Đó chính là tiền đề cho việc xem xét đến hành vi vượt quá phạm vi của sự ủy quyền. 

    Luật Hợp tác xã 2012 đã nâng cao vai trò của ban kiểm soát/kiểm soát viên trong việc kiểm soát nội bộ HTX. Tuy nhiên, hoạt động của ban kiểm soát/kiểm soát viên phần lớn mang tính hình thức và chưa có thực chất. Vì vậy, hiệu quả hoạt động của các ban kiểm soát/kiểm soát viên HTX chưa cao. Nguyên nhân của vướng mắc trên là chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm của ban kiểm soát/kiểm soát viên đối với đại hội thành viên trong trường hợp để hội đồng quản trị, giám đốc (tổng giám đốc) bội tín với sự ủy thác của đại hội thành viên, gây thiệt hại cho HTX.

    6. Về chấm dứt tư cách thành viên hợp tác xã

    Luật hợp tác xã 2012 không đề cấp đến việc chấm dứt tư cách thành viên trong trường hợp “xã viên chuyển hết vốn góp và các quyền lợi, nghĩa vụ của mình cho người khác theo quy định của Điều lệ hợp tác xã” như Luật hợp tác xã 2003. Trong trường hợp này, thành viên sẽ đương nhiên chấm dứt tư cách thành viên, tuy nhiên cần quy định cụ thể trong luật để có căn cứ pháp lý khi giải quyết vụ việc cụ thể.

    Ngoài ra, đối với trường hợp chấm dứt tư cách thành viên hợp tác xã khi thành viên hợp tác xã đó bị khai trừ ra khỏi hợp tác tác, pháp luật chưa đưa ra quy định về lý do thành viên hợp tác xã sẽ bị khai trừ dẫn đến việc lạm dụng luật trong một số hợp tác xã.

    IV. Một số đề xuất hoàn thiện quy chế pháp lý về thành viên hợp tác xã

    Thứ nhất, Luật hợp tác xã cần bổ sung thêm quy định về phân loại thành viên hợp tác xã. Có thể phân thành hai loại là thành viên chính thức và thành viên liên kết.

    Thứ hai, Luật hợp tác xã cần bổ sung quy định về điều kiện cho hộ gia đình là thành viên hợp tác xã nhằm tránh các tranh chấp nôi bộ xảy ra trong hợp tác xã.

    Thứ ba, sửa đổi điểm a Khoản 3 Điều 49 Luật hợp tác xã 2012, thay từ “chủ yếu” bằng từ “ưu tiên”: “Ưu tiên theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên hợp tác xã theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên hợp tác xã…”

    Thứ tư, Luật Hợp tác xã nên xác định rõ ràng thông tin nào cần được công bố, cần được báo cáo, thông tin nào thuộc về bí mật của HTX.

    Thứ năm, quy định cụ thể trách nhiệm của thành viên hội đồng quản trị, giám đốc (tổng giám đốc) và người quản lý khác có trách nhiệm trong hợp tác xã.

    Thứ sáu, bổ sung thêm quy định về chấm dứt tư cách thành viên hợp tác xã trong trường hợp “thành viên đã chuyển hết vốn góp và các quyền lợi, nghĩa vụ của mình cho người khác theo quy định của Điều lệ hợp tác xã”.

    Thứ bảy, bổ sung thêm quy định về các trường hợp hợp tác xã được phép khai trừ thành viên hợp tác xã.

    KẾT LUẬN

    Qua những phân tích ở trên, ta thấy được quy định của Luật hợp tác xã 2012 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành đã hoàn thiện khung pháp lí cho thành viên hợp tác xã nói riêng và mô hình hợp tác xã nói chung. Địa vị pháp lí của thành viên hợp tác xã nhìn nhận đúng vị trí là “hạt nhân” của hợp tác xã. Việc pháp luật quy định nhiều ràng buộc pháp lí hơn đối với thành viên hợp tác xã và hợp tác xã nhằm mục đích bảo đảm sự phát triển bền vững của mô hình kinh tế tập thể này, qua đó đảm bảo quyền lợi của chính các cá nhân, tổ chức tham gia vào hợp tác xã.

    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

    * Văn bản pháp luật:

    1. Bộ luật Dân sự 2015

    2. Luật hợp tác xã 2012

    3. Luật hợp tác xã 2003

    4. Luật cán bộ, công chức 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2019)

    5. Luật phòng chống tham nhũng 2018

    6. Nghị định 193/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật hợp tác xã

    7. Nghị định 107/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 193/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật hợp tác xã

    8. Nghị định 177/2004/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hợp tác xã năm 2003

    * Giáo trình:

    9. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam tập I, NXB. Tư pháp, Hà Nội, 2020

    * Bài tạp chí:

    10. Lê Hương Giang, Địa vị pháp lí của thành viên hợp tác xã theo quy định pháp luật hiện hành, Tạp chí Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, số 9/2016, trang 11 – 21

    11. TS. Cao Đình Lành, Quyền của thành viên hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã 2012, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, só 10/2019, trang 39 – 44 

    * Khóa luận:

    12. Nguyễn Thị Hồng Anh, ThS. Lê Hương Giang hướng dẫn, Quy chế pháp lý về thành viên hợp tác xã theo Luật hợp xã 2012

    Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU

    Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

    Continue Reading
    Newer
    Stories
    Older
    Stories

    About me

    REY A law practitioner

    Một người trẻ đam mê và đang trên con đường theo đuổi ngành Luật. Tốt nghiệp Cử nhân Luật tại HLU và đang học Luật sư & Thạc sĩ Luật. Read More

    Donate me

    Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha:
    BIDV

    Follow me on Facebook

    Follow me on Youtube

    Labels

    CHUYỆN ĐI LÀM (3) ĐỀ THI HẾT MÔN (14) HỌC LUẬT Ở HLU (6) HỌC LUẬT SƯ (6) LUẬT HÀNH CHÍNH (47) LÝ LUẬN CHUNG (111) TIỂU LUẬN (50)

    Cảm ơn đã ghé thăm

    recent posts

    Popular Posts

    • Phân tích đặc trưng cơ bản của nhà nước. Trên cơ sở đó, làm sáng tỏ biểu hiện một đặc trưng của nhà nước Việt Nam hiện nay.
    • 80 CÂU VẤN ĐÁP LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT (có đáp án)

    Blog Archive

    • tháng 8 2025 (1)
    • tháng 6 2024 (2)
    • tháng 3 2024 (2)
    • tháng 2 2024 (1)
    • tháng 1 2024 (8)
    • tháng 10 2023 (30)
    • tháng 9 2023 (115)
    • tháng 8 2023 (73)
    facebook youtube

    Created with by BeautyTemplates

    Back to top