Được tạo bởi Blogger.
facebook youtube

Rey & Law

    • Home
    • HỌC LUẬT Ở HLU
    • HỌC LUẬT SƯ
    • HỌC THẠC SĨ
    • CHUYỆN ĐI LÀM
    • TỰ HỌC LUẬT

     

    MỞ ĐẦU

    Cho vay là một phương thức tài trợ truyền thống của ngân hàng. Hình thức biểu hiện cụ thể của hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đó là ngân hàng chuyển tiền trực tiếp cho khách hàng sử dụng theo yêu cầu hoặc mục đích tiêu dùng của khách hàng khi khách hàng đáp ứng được các yêu cầu ngân hàng đặt ra. Cho vay là hoạt động chính của ngân hàng, là hoạt động mang lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động cho vay của ngân hàng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro về tín dụng đối với ngân hàng trong trường hợp khách hàng không trả được tiền vay. Chính vì thế, trong hoạt động cho vay của ngân hàng, các biện pháp bảo đảm đóng vai trò quan trọng trong việc hạn chế rủi ro tín dụng cho ngân hàng.

    Nhận thức được tầm quan trọng của các biện pháp bảo đảm trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại, sau đây em xin trình bày về đề tài: “Thực trạng quy định về các biện pháp bảo đảm trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại.” 

    NỘI DUNG

    I. Một số vấn đề chung về các biện pháp bảo đảm trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại

    1. Khái niệm và đặc điểm của các biện pháp bảo đảm trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại

    Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015) và các văn bản pháp luật hiện hành không đưa ra định nghĩa thế nào là “biện pháp bảo đảm”. Tuy nhiên, có thể hiểu rằng: Biện pháp bảo đảm là những cách thức, giải pháp nhằm hỗ trợ, khẳng định, bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng một cách chắc chắn. Biện pháp bảo đảm đi liền, không tách rời với nghĩa vụ chính trong hợp đồng chính. Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng, không đẩy đủ các nghĩa vụ đã cam kết, thì bên có quyền có thể áp dụng biện pháp bảo đảm đã thỏa thuận hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng để buộc bên có nghĩa vụ phải thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết nhằm bảo đảm quyền lợi cho mình. 

    Các biện pháp bảo đảm trong hoạt động cho vay của ngân hàng có những đặc điểm sau:

    Thứ nhất, các biện pháp bảo đảm mang tính chất bổ sung cho nghĩa vụ chính của bên vay, đó là nghĩa vụ trả nợ.

    Thứ hai, các biện pháp bảo đảm đều có mục đích nâng cao trách nhiệm của bên vay trong quan hệ cho vay của ngân hàng.

    Thứ ba, phạm vi bảo đảm của các biện pháp bảo đảm không vượt quá phạm vi nghĩa vụ đã được xác định trong nội dung của quan hệ nghĩa vụ chính. 

    Thứ tư, các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ chỉ được áp dụng khi bên vay có sự vi phạm nghĩa vụ trả nợ.

    Thứ năm, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ sự thỏa thuận giữa ngân hàng và bên bảo đảm.

    2. Một số biện pháp bảo đảm phổ biến trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại

    Với bản chất là một tổ chức đặc thù có chức năng kinh doanh tiền tệ, ngân hàng thương mại thực hiện hoạt động kinh doanh của mình thông qua các quan hệ tín dụng, từ các quan hệ này, mối quan hệ giữa ngân hàng với các tổ chức, cá nhân được thiết lập và phát triển, gắn ngân hàng với các hoạt động sản xuất kinh doanh trong xã hội. Tuy nhiên, nếu không có những thiết chế cơ bản để bảo đảm các khoản tiền đi vay và cho vay hiệu quả, ngân hàng sẽ tự đặt mình trước những rủi ro khó lường đối với một loại hàng hóa vốn dĩ đã chứa đựng rất nhiều rủi ro, đó là “tiền tệ”. 

    Điều 292 BLDS 2015 quy định chín biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bao gồm: cầm cố tài sản; thế chấp tài sản; đặt cọc; ký cược; ký quỹ; bảo lưu quyền sở hữu; bảo lãnh; tín chấp; cầm giữ tài sản. Tuy nhiên, trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại thì các biện pháp bảo đảm được sử dụng nhiều nhất là: cầm cố tài sản; thế chấp tài sản và bảo lãnh.

    II. Thực trạng quy định pháp luật về các biện pháp bảo đảm trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại

    1. Quy định của pháp luật về các biện pháp bảo đảm trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại

    a) Cầm cố tài sản

    Điều 309 BLDS quy định: “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.”

    Đặc trưng của biện pháp cầm cố tài sản là bên cầm cố tài sản không giữ tài sản mà giao tài sản cho bên nhận cầm cố.

    Chủ thể tham gia vào quan hệ cầm cố gồm hai bên: bên nhận cầm cố và bên cầm cố. Trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại, bên nhận cầm cố là ngân hàng thương mại còn bên cầm cố là các tổ chức, cá nhân có quan hệ vay vốn với ngân hàng thương mại hoặc người thứ ba không thuộc các bên chủ thể trong quan hệ cho vay. Chẳng hạn, A giao tài sản của mình cho ngân hàng để bảo đảm việc B trả khoản tiền mà B đã vay của ngân hàng.

    Cầm cố tài sản là việc bên đi vay hoặc bên thứ ba giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho ngân hàng thương mại để đảm bảo cho khoản tiền mà bên vay xin vay. Tài sản cầm cố có thể là bất động sản hoặc động sản như phương tiện vận tải, thiết bị máy móc dùng cho sản xuất kinh doanh, sổ tiết kiệm, kỳ phiếu, kim khí quý… Tài sản dùng để cầm cố phải đáp ứng các điều kiện (i) phải thuộc quyền sở hữu của bên cầm cố; (ii) phải được phép chuyển giao.

    Hợp đồng cầm cố có hiệu lực đối với các bên trong hợp đồng từ thời điểm giao kết và có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm ngân hàng nắm giữ tài sản cầm cố. Trong trường hợp tài sản cầm cố là bất động sản thì có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký.

    Thời hạn cầm cố tài sản do các bên thỏa thuận. Nếu các bên không có thỏa thuận thì thời hạn cầm cố tài sản được tính từ thời điểm ngân hàng nhận tài sản cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ trả nợ.

    Trong quan hệ cầm cố tài sản, bên cầm cố có nghĩa vụ giao tài sản cầm cố cho ngân hàng theo đúng thoả thuận; báo cho ngân hàng về quyền của người thứ ba đối với tài sản cầm cố (nếu có) và thanh toán cho ngân hàng chi phí hợp lý để bảo quản tài sản cầm cố, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

    Bên cạnh đó, bên cầm cố có quyền yêu cầu ngân hàng chấm dứt việc sử dụng tài sản cầm cố nếu do sử dụng mà tài sản cầm cố có nguy cơ bị mất giá trị hoặc giảm sút giá trị; yêu cầu ngân hàng trả lại tài sản cầm cố và giấy tờ liên quan, nếu có khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt; yêu cầu ngân hàng bồi thường thiệt hại xảy ra đối với tài sản cầm cố; được bán, thay thế, trao đổi, tặng cho tài sản cầm cố nếu được ngân hàng đồng ý hoặc theo quy định của luật.

    Về phía bên nhận cầm cố, ngân hàng có nghĩa vụ bảo quản, giữ gìn tài sản cầm cố; không được bán, trao đổi, tặng cho tài sản cầm cố; không được cho thuê, cho mượn, khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm cố, trừ trường hợp có thỏa thuận khác; trả lại tài sản cầm cố và giấy tờ liên quan, nếu có khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác.

    Cùng với đó, ngân hàng có quyền yêu cầu người đang chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật tài sản cầm cố trả lại tài sản đó; xử lý tài sản cầm cố theo phương thức đã thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật; được cho thuê, cho mượn, khai thác công dụng tài sản cầm cố và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm cố, nếu có thoả thuận; được thanh toán chi phí hợp lý bảo quản tài sản cầm cố khi trả lại tài sản cho bên cầm cố.

    Khi đến thời hạn phải thực hiện nghĩa vụ mà bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ thì ngân hàng có quyền xử lý tài sản cầm cố. Nếu các bên đã thỏa thuận về phương thức xử lý tài sản cầm cố thì ngân hàng được xử lý tài sản theo phương thức đó. Trường hợp các bên chưa thỏa thuận về phương thức xử lí tài sản cầm cố thì tài sản cầm cố được bán đấu giá theo quy định của pháp luật.

    Theo Điều 315 BLDS 2015, cầm cố tài sản chấm dứt trong các trường hợp: (1) Nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt; (2) Việc cầm cố tài sản được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác; (3) Tài sản cầm cố đã được xử lý; (4) Theo thoả thuận của các bên. Khi việc cầm cố tài sản chấm dứt theo trường hợp (1) và (2) hoặc theo thỏa thuận của các bên thì tài sản cầm cố, giấy tờ liên quan đến tài sản cầm cố được trả lại cho bên cầm cố. Hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản cầm cố cũng được trả lại cho bên cầm cố, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

    b) Thế chấp tài sản

    Khoản 1 Điều 317 BLDS 2015 quy định: “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp).”

    Đặc trưng của biện pháp thế chấp tài sản là bên thế chấp không giao tài sản cho bên nhận thế chấp mà bên thế chấp mà vẫn giữ tài sản hoặc giao tài sản cho bên thứ ba.

    Chủ thể trong quan hệ thế chấp tài sản gồm có bên thế chấp và bên nhận thế chấp. Trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại, bên nhận thế chấp là ngân hàng thương mại còn bên thế chấp là các tổ chức, cá nhân có quan hệ vay vốn với ngân hàng thương mại hoặc người thứ ba không thuộc các bên chủ thể trong quan hệ cho vay. Chẳng hạn, A thế chấp tài sản của mình cho ngân hàng để bảo đảm việc B trả khoản tiền mà B đã vay của ngân hàng.

    Tài sản thế chấp có thể là vật, quyền tài sản, giấy tờ có giá, có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương  lai. Tài sản đang cho thuê, cho mượn cũng có thể được dùng để thế chấp. 

    Bên thế chấp phải giao toàn bộ giấy tờ về tài sản thế chấp cho ngân hàng nếu có thỏa thuận. Bên thế chấp phải thông báo cho ngân hàng biết các quyền của người thứ ba đối với tài sản thế chấp. 

    Nếu các bên không có thỏa thuận khác thì bên thế chấp vẫn giữ tài sản và được khai thác công dụng của tài sản, được hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản thế chấp. Bên thế chấp phải bảo quản, giữ gìn tài sản thế chấp và phải áp dụng các biện pháp cần thiết để khắc phục nguy cơ thiệt hại tới tài sản. Bên thế chấp không được bán, trao đổi, tặng, cho tài sản thế chấp và chỉ được cho thuê, cho mượn hoặc dùng tài sản thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.

    Ngân hàng có quyền giữ các giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp trong trường hợp các bên có thỏa thuận, xem xét, kiểm tra trực tiếp tài sản thế chấp và thực hiện việc đăng ký thế chấp theo quy định của pháp luật.

    Nếu đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì ngân hàng có quyền xử lý tài sản thế chấp. Nếu các bên đã thỏa thuận phương thức xử lý tài sản thế chấp thì thực hiện theo thỏa thuận của các bên. Nếu các bên không có thỏa thuận thì việc xử lý tài sản thế chấp được thực hiện thông qua phương thức bán đấu giá.

    Theo Điều 327 BLDS 2015, thế chấp tài sản chấm dứt trong các trường hợp: (1) Nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp chấm dứt; (2) Việc thế chấp tài sản được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác; (3) Tài sản thế chấp đã được xử lý; (4) Theo thoả thuận của các bên. 

    c) Bảo lãnh

    Khoản 1 Điều 335 BLDS 2015 quy định: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.”

    Chủ thể trong quan hệ bảo lãnh gồm có bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại, bên nhận bảo lãnh là ngân hàng thương mại, bên được bảo lãnh là các tổ chức, cá nhân có quan hệ vay vốn với ngân hàng thương mại còn bên bảo lãnh là bên thứ ba không thuộc các bên chủ thể trong quan hệ cho vay. Chẳng hạn, A bảo lãnh cho B vay tiền của ngân hàng.

    Phạm vi bảo lãnh có thể là một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ. Nếu không có thỏa thuận khác thì người bảo lãnh phải bảo lãnh cả tiền lãi trên nợ gốc trong phạm vi bảo lãnh; đồng thời phải bảo lãnh cả khoản tiền phạt cũng như tiền bồi thường thiệt hại.

    Người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nếu đến thời hạn mà bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của họ với ngân hàng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 335 BLDS 2015, thời điểm bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ được xác định theo hai trường hợp: (i) khi nghĩa vụ được bảo đảm đến thời hạn thực hiện (trường hợp các bên không có thỏa thuận khác) hoặc (ii) khi bên vay không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình (trường hợp các bên có thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên vay không có khả năng thực hiện nghĩa vụ).

    Bên bảo lãnh phải dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thay cho bên vay nếu bên vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng. Khi bên bảo lãnh thực hiện xong những cam kết trước ngân hàng thì quan hệ nghĩa vụ chính và quan hệ bảo lãnh chấm dứt. Khi đó, bên bảo lãnh có quyền yêu cầu người được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi bảo lãnh; bên bảo lãnh được hưởng thù lao nếu có thỏa thuận giữa họ với người được bảo lãnh hoặc pháp luật có quy định.

    Trường hợp nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ mà giữa bên bảo lãnh với ngân hàng không có thỏa thuận khác thì những người cùng bảo lãnh phải liên đới thực hiện việc bảo lãnh. Ngân hàng cố thể yêu cầu bất cứ người nào trong số những người cùng bảo lãnh phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ khi đến thời hạn thực hiện mà bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ. Khi một trong số những người bảo lãnh liên đới đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thay cho bên vay thì có quyền yêu cầu những người bảo lãnh còn lại thực hiện phần nghĩa vụ trong phạm vi họ bảo lãnh đối với mình.

    Theo Điều 343 BLDS 2015, bảo lãnh chấm dứt trong các trường hợp: (1) Nghĩa vụ được bảo lãnh chấm dứt; (2) Việc bảo lãnh được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác; (3) Bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh; (4) Theo thoả thuận của các bên.

    2. Quy định của pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm

    Theo quy định tại Điều 298 BLDS 2015, biện pháp bảo đảm được đăng ký theo thỏa thuận hoặc theo quy định của luật. Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường hợp luật có quy định. Trường hợp được đăng ký thì biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký. Việc đăng ký biện pháp bảo đảm được thực hiện theo quy định của pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm. 

    * Các trường hợp đăng ký biện pháp bảo đảm:

    Các biện pháp bảo đảm bắt buộc phải đăng ký gồm: (i) thế chấp quyền sử dụng đất; (ii) thế chấp tài sản gắn liền với đất trong trường hợp tài sản đó đã được chứng nhận quyền sở hữu trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; (iii) cầm cố tàu bay, thế chấp tàu bay; (iv) thế chấp tàu biển.

    Các biện pháp bảo đảm được đăng ký khi có yêu cầu gồm: (i) thế chấp tài sản là động sản khác; (ii) thế chấp tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai.

    * Thời điểm có hiệu lực của đăng ký biện pháp bảo đảm:

    Trường hợp đăng ký biện pháp bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tàu bay, tàu biển, thì thời điểm có hiệu lực của đăng ký biện pháp bảo đảm là thời điểm cơ quan đăng ký ghi nội dung đăng ký vào sổ đăng ký. Trường hợp đăng ký biện pháp bảo đảm bằng tài sản là động sản khác, thì thời điểm có hiệu lực của đăng ký biện pháp bảo đảm là thời điểm nội dung đăng ký được cập nhật vào cơ sở dữ liệu về biện pháp bảo đảm.

    Thời hạn có hiệu lực của đăng ký biện pháp bảo đảm là kể từ thời điểm đăng ký theo quy định đến thời điểm xóa đăng ký biện pháp bảo đảm.

    * Cơ quan có thẩm quyền đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm:

    Theo quy định tại Điều 9 Nghị định 102/2017/NĐ-CP:

    - Cục Hàng không Việt Nam trực thuộc Bộ Giao thông vận tải thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm bằng tàu bay.

    - Cục Hàng hải Việt Nam hoặc Chi cục hàng hải, Cảng vụ hàng hải theo phân cấp của Cục Hàng hải Việt Nam trực thuộc Bộ Giao thông vận tải thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm bằng tàu biển.

    - Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai và Văn phòng đăng ký đất đai trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất.

    - Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm bằng động sản và các tài sản khác không thuộc thẩm quyền đăng ký của các cơ quan nêu trên.

    * Các trường hợp xóa đăng ký biện pháp bảo đảm:

    Theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Nghị định 102/2017/NĐ-CP, các trường hợp xóa đăng ký biện pháp bảo đảm bảo bao gồm: (1) Chấm dứt nghĩa vụ được bảo đảm; (2) Hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp bảo đảm đã đăng ký bằng biện pháp bảo đảm khác; (3) Thay thế toàn bộ tài sản bảo đảm bằng tài sản khác; (4) Xử lý xong toàn bộ tài sản bảo đảm; (5) Tài sản bảo đảm bị tiêu hủy, bị tổn thất toàn bộ; tài sản gắn liền với đất là tài sản bảo đảm bị phá dỡ, bị tịch thu theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; (6) Có bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định của Trọng tài đã có hiệu lực pháp luật về việc hủy bỏ biện pháp bảo đảm, tuyên bố biện pháp bảo đảm vô hiệu; (7) Đơn phương chấm dứt biện pháp bảo đảm hoặc tuyên bố chấm dứt biện pháp bảo đảm trong các trường hợp khác theo quy định của pháp luật; (8) Cơ quan thi hành án dân sự hoặc Văn phòng thừa phát lại đã kê biên, xử lý xong tài sản bảo đảm; (9) Theo thỏa thuận của các bên.

    3. Quy định của pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm

    Theo quy định tại Điều 299 BLDS 2015, bên nhận bảo đảm chỉ được xử lý tài sản bảo đảm trong các trường hợp sau đây:

    (1) Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.

    (2) Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thoả thuận hoặc theo quy định của luật.

    (3) Trường hợp khác do các bên thoả thuận hoặc luật có quy định.

    Điều 303 BLDS 2015 quy định bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm có quyền thỏa thuận một trong các phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp: (1) Bán đấu giá tài sản; (2) Bên nhận bảo đảm tự bán tài sản; (3) Bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm; (4) Phương thức khác.

    Trường hợp không có thỏa thuận về phương thức xử lý tài sản bảo đảm thì tài sản được bán đấu giá, trừ trường hợp luật có quy định khác.

    4. Thực trạng cho vay có bảo đảm của các ngân hàng thương mại

    Trong bối cảnh bình thường mới hiện nay, nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng đã và đang phát huy hiệu quả giúp doanh nghiệp ổn định sản xuất, mở rộng quy mô hoạt động, đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng nền kinh tế. 

    Theo thông tin từ Ngân hàng Nhà nước, tín dụng ngân hàng tính đến ngày 7/10/2021 tăng 7,2% so với đầu năm, cao hơn so với cùng kỳ năm 2020. Thanh khoản của toàn hệ thống ngân hàng được đánh giá là vẫn đang ở trạng thái dồi dào, sẵn sàng hỗ trợ cho sự phục hồi của nền kinh tế. Một số ngân hàng đang xin nới hạn mức tín dụng để có thêm dư địa cho vay vào mùa cao điểm cuối năm. Tuy nhiên các khoản tín dụng được cấp đa phần đến với các doanh nghiệp có tiềm lực mạnh, còn những doanh nghiệp vừa và nhỏ thì gần như không thể tiếp cận được, vì không đủ tiêu chuẩn cần thiết về tài sản đảm bảo.

    Nhiều doanh nghiệp cho biết, khó có thể tiếp cận được nguồn vốn vay chính thống và chỉ có thể tiếp cận được những khoản vay ngắn hạn, việc tiếp cận được khoản vay trung và dài hạn rất hạn chế. Các doanh nghiệp nhỏ hoặc siêu nhỏ thường phải chịu chi phí vay đắt đỏ hơn so các doanh nghiệp vừa và lớn và sẽ không thể vay vốn nếu không có tài sản thế chấp. Bên cạnh đó, thủ tục vay vốn còn phiền hà, phức tạp. Hơn nữa, tài sản đảm bảo của các doanh nghiệp còn đang bị định giá rẻ hơn trong bối cảnh dịch bệnh. Nếu như trước kia, doanh nghiệp vay vốn có thể được đối ứng 30-70 với ngân hàng, nghĩa là doanh nghiệp có tài sản đảm bảo đối ứng giá trị 30% khoản vay thì ngân hàng cho vay 70%, nhưng bây giờ khoản đối ứng đã lên 50-50, thậm chí xuống 70-30. 

    Không chỉ vậy, các doanh nghiệp dịch vụ cũng gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay ngân hàng do đa phần hoạt động chủ yếu dưới hình thức thuê mặt bằng và các tài sản thuộc sở hữu không nằm trong danh mục được ngân hàng chấp nhận làm tài sản đảm bảo.

    5. Một số bất cập trong quy định của pháp luật về các biện pháp bảo đảm 

    Thứ nhất, về quyền thu giữ tài sản bảo đảm của ngân hàng. Quyền thu giữ tài sản của bên nhận bảo đảm chưa được ghi nhận tại BLDS 2015. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị quyết 42/2017/NQ-QH14, ngân hàng có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của bên bảo đảm, bên giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi đáp ứng đầy đủ 05 điều kiện, trong đó, có điều kiện hợp đồng tín dụng phải có điều khoản về việc bên bảo đảm đồng ý cho ngân hàng có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật. Như vậy, đối với những hợp đồng đã ký trước ngày Nghị quyết có hiệu lực mà không có thỏa thuận trên thì ngân hàng không thể tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm, trừ khi các bên đồng ý sửa đổi, bổ sung hợp đồng đã ký. Trên thực tế, việc sửa đổi, bổ sung hợp đồng là khó khả thi, đặc biệt tại giai đoạn xử lý tài sản bảo đảm, do khách hàng không hợp tác với ngân hàng trong việc ký văn bản bổ sung nội dung này vào hợp đồng.

    Thứ hai, về thế chấp, cầm cố tài sản để bảo đảm nghĩa vụ của bên thứ ba. Quy định về thế chấp, cầm cố tài sản tại BLDS 2015 chưa rõ ràng, không có quy định cụ thể về việc thế chấp, cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cho bên thứ ba. Điều này dẫn đến việc có những cách hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau trên thực tế. Hiện nay, trong quá trình giải quyết tranh chấp, có một số tòa án có quan điểm việc dùng tài sản bảo đảm cho bên thứ ba vay vốn là biện pháp bảo lãnh và hợp đồng bảo đảm phải là hợp đồng ba bên (bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh, bên được bảo lãnh). Điều này đã gây khó khăn và những rủi ro pháp lý cho ngân hàng trong quá trình ký kết, thực hiện hợp đồng cầm cố, thế chấp tài sản, đối mặt với rủi ro hợp đồng thế chấp/cầm cố tài sản của bên thứ ba bị tuyên vô hiệu. 

    Thứ ba, quy định thiếu thống nhất đối với biện pháp cầm cố và thế chấp, gây khó khăn trong công tác áp dụng biện pháp bảo đảm. Theo quy định của BLDS 2015 về biện pháp bảo đảm cầm cố và thế chấp, cầm cố và thế chấp chỉ khác nhau ở việc chuyển giao mang tính cơ học các tài sản bảo đảm mà không hề có sự phân biệt về loại tài sản. Vì thế, trong hoạt động cho vay việc cầm cố bất động sản là hoàn toàn có thể thực hiện. Tuy nhiên, các Luật chuyên ngành lại không quy định điều này. Luật Nhà 2014 không nhắc tới quyền cầm cố nhà ở mà chỉ nhắc đến quyền thế chấp nhà ở. Điều 167 Luật Đất đai 2013 cũng không hề nhắc tới cầm cố quyền sử dụng đất. Như vậy, quy định trong các văn bản Luật chuyên ngành lại hạn chế quyền cầm cố bất động sản của người sở hữu các quyền này.

    III. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về các biện pháp bảo đảm trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại

    Thứ nhất, cần sửa đổi các quy định về cầm cố tài sản. Điều 10 Luật Nhà ở 2014 cần được sửa đổi theo hướng mở rộng cả quyền cầm cố nhà ở cho chủ sở hữu, đồng thời quy định chi tiết về cầm cố nhà ở. Tương tự, tại Điều 167 Luật Đất đai 2013 cũng cần sửa đổi theo hướng cho phép các chủ thể có quyền sử dụng đất cầm cố quyền sử dụng đất. Ngoài ra, các loại tài sản đặc biệt như tàu bay, tàu biển... cần thống nhất trong việc áp dụng biện pháp cầm cố hay thế chấp. Các văn bản hướng dẫn BLDS 2015 cần có quy định cụ thể hướng dẫn các biện pháp  đảm bảo đối với quyền tài sản theo hướng cụ thế hóa quyền tài sản có thể được đảm bảo dưới hình thức cầm cố, thế chấp hay biện pháp khác khi áp dụng vào thực tiễn các cán bộ ngân hàng thực hiện thống nhất và có cơ sở.

    Thứ hai, cần ban hành văn bản hướng dẫn BLDS 2015 theo hướng quy định rõ việc cho phép thế chấp, cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cho bên thứ ba để việc áp dụng pháp luật trên thực tế được thống nhất.

    Thứ ba, cần pháp điển hóa Luật giao dịch bảo đảm. Đăng ký giao dịch bảo đảm có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, các quy phạm pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm được quy định tản mạn tại nhiều luật và văn bản dưới luật gây khó khăn cho công tác đăng ký giao dịch bảo đảm. Luật giao dịch bảo đảm sẽ thống nhất các quy định tản mạn tại các văn bản pháp luật khác nhau về một mối, giúp thuận tiện hơn trong việc áp dụng. Hơn nữa, việc ban hành Luật giao dịch bảo đảm thay vì các Nghị định hướng dẫn như hiện nay cũng phản ánh đúng tầm quan trọng của quan hệ bảo đảm trong xã hội, mối quan hệ đầy phức tạp, liên quan đến nhiều thành phần quan trọng cũng như các tài sản có giá trị lớn trong nền kinh tế.

    KẾT LUẬN

    Những phân tích trên đây đã khái quát được quy định của pháp luật hiện hành về các biện pháp bảo đảm trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại. Nhìn chung, quy định của pháp luật hiện hành đã tương đối đầy đủ, tạo hành lang pháp lý an toàn cho các giao dịch bảo đảm bên cạnh các hợp đồng tín dụng của ngân hàng. Các biện pháp bảo đảm phần nào giúp ngân hàng bảo toàn tiền vay khi cho khách hàng vay vốn, tránh tình trạng nợ xấu. Tuy nhiên, mặt khác, các biện pháp bảo đảm cũng làm hạn chế khả năng tiếp cận tín dụng của khách hàng, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có tài sản bảo đảm. Tiểu luận cũng đã nêu ra một số điểm hạn chế của quy định pháp luật hiện hành về các biện pháp bảo đảm và đề xuất một số biện pháp để hoàn thiện pháp luật về vấn đề này hơn nữa.

    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

    1. Bộ luật Dân sự 2015

    2. Luật các tổ chức tín dụng 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

    3. Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng

    4. Nghị định 102/2017/NĐ-CP về đăng ký biện pháp bảo đảm

    5. Nguyễn Thị Lương (2014), Thực tiễn thực hiện các biện pháp bảo đảm trong hoạt động của các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội

    6. TS. Nguyễn Thị Thủy (2016), Bàn về việc áp dụng các biện pháp thế chấp, cầm cố tài sản của bên thứ ba và biện pháp bảo lãnh trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam, số 08(102)/2016, tr. 63 – 70 

    7. Quỳnh Huệ (2021), Một số vướng mắc, bất cập về biện pháp bảo đảm trong hoạt động tín dụng, ngân hàng, Website Viện kiểm sát Nhân dân tỉnh Thái Bình, https://vksndthaibinh.gov.vn/Article/3986/Mot-so-vuong-mac-bat-cap-ve-bien-phap-bao-dam-trong-hoat-dong-tin-dung-ngan-hang.html (truy cập ngày 29/12/2021)

    8. Tạ Quang Đôn, Nguyễn Thị Lương Trà (2021), Thực trạng hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm và những tác động tới quá trình xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, Tạp chí Ngân hàng, http://tapchinganhang.gov.vn/thuc-trang-he-thong-phap-luat-ve-giao-dich-bao-dam-va-nhung-tac-dong-toi-qua-trinh-xu-ly-no-xau-cua-.htm (truy cập ngày 29/12/2021)

    9. Trang Hà (2017), Tài sản bảo đảm nhưng chưa chắc đã là “đảm bảo”, Website ngân hàng Agribank, https://www.agribank.com.vn/vn/ve-agribank/tin-tuc-su-kien/tin-ve-agribank/goc-nhin-phap-luat1/tai-san-bao-dam-nhung-chua-chac-da-la-dam-bao (truy cập ngày 29/12/2021)

    10. ThS. Trần Thế Hệ (2017), Pháp luật về biện pháp bảo đảm trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại, Tạp chí Tài chính Online, https://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi/trao-doi-binh-luan/phap-luat-ve-bien-phap-bao-dam-trong-hoat-dong-cho-vay-cua-ngan-hang-thuong-mai-125761.html (truy cập ngày 29/12/2021)

    11. Trần Vũ Hải chủ biên (2010), Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội

    12. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội

    13. Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam tập 2, NXB Công an nhân dân, Hà Nội

    Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU

    Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

    Continue Reading



    ĐỀ THI HẾT HỌC PHẦN 1

    Môn: Luật hình sự

    (Thời gian 120 phút không kể chép đề)

    ĐỀ 1

    Câu 1 (2 điểm):

    Phân biệt lỗi cố ý trực tiếp với lỗi cố ý gián tiếp. Cho ví dụ.

    Câu 2 (4 điểm): Trong các khẳng định dưới đây, khẳng định đúng, khẳng định nào sai? Giải thích rõ tại sao?

    1. Mỗi tội phạm cụ thể chỉ có một khách thể trực tiếp.

    2. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó. 

    3. Việc xác định nhân thân người phạm tội chỉ có ý nghĩa đối với việc định tội.

    4. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS) luôn là tội phạm ít nghiêm trọng.

    Câu 3 (4 điểm):

    Sau khi A ly hôn người vợ cũ và được quyền nuôi con trai là C (8 tuổi). A kết hôn với B. Do thù ghét người vợ cũ nên vợ chồng A, B đối xử rất tồi tệ với cháu C. Một lần do nghi ngờ cháu C trộm tiền, A và B đã thay nhau đánh đập làm cháu C bị gãy xương sườn và nhiều thương tích khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 35%. Hành vi của A, B cấu thành tội phạm theo khoản 3 Điều 14 BLHS.

    Câu hỏi:

    1. Tội cây gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà A, B thực hiện thuộc loại tội nào theo phân loại tội phạm tại Điều 9 BLHS?

    2. A và B có bị coi là đồng phạm trong vụ phạm tội nêu trên không? Xác định các dấu hiệu thuộc một khách quan của tội phạm mà A, B thực hiện trong tình huống nêu trên.

    --------------------------------------

    ĐỀ 2

    Câu 1 (2 điểm):

    Phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác. Cho ví dụ.

    Câu 2 (4 điểm):

    Trong các khẳng định dưới đây, khẳng định nào đúng, khẳng định nào sai? Giải thích rõ tại sao?

    1. Việc xác định đối tượng tác động của tội phạm chỉ có ý nghĩa đối với việc định tội.

    2. Tội phạm hoàn thành là trường hợp người phạm tội đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội.

    3. Hình phạt cải tạo không giam giữ có thể được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng.

    4. Người 15 tuổi có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản.

    Câu 3 (4 điểm):

    Do có mâu thuẫn với vợ (chị B), A bỏ nhà lên thành phố tìm việc làm. Khi đi làm xa nhà, A quan biết và có quan hệ tình cảm với chị C. Để tự do quan hệ với C, một lần về thăm nhà, A bí mật tán thuốc ngủ thành bột và trộn với bột sắn dây (đồ uống chị B thường dùng) để trong tủ bếp. Chị B không biết bột sắn dây có trộn thuốc ngủ nên pha một cốc uống. Khi chị B đã rơi vào tình trạng hôn mê nhưng được hàng xóm sang chơi, phát hiện và đưa đi cấp cứu kịp thời nên không chết. A bị kết án về tội giết người theo khoản 1 Điều 123 BLHS.

    Câu hỏi:

    1. Phân tích xác định giai đoạn thực hiện tội phạm đối với hành vi phạm tội của A.

    2. Xác định hình phạt nặng nhất mà tòa án có thể áp dụng đối với A.

    Xem thêm: Tổng hợp đề thi hết môn HLU

    Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

    Continue Reading

     



    PHẦN 1: GIAO TIẾP XÃ HỘI

    Thi sinh nghe và trả lời 5 câu hỏi liên quan tới cuộc sống hàng ngày

    1. 请你做一下自我介绍。

    2. 你最大的爱好是什么?

    3. 你的朋友多不多?

    4. 你觉得汉语难不难?

    5. 你最大的愿望是什么?

    PHẦN 2: THẢO LUẬN CHỦ ĐỀ

    Thi sinh nghe CBHT đưa ra một chủ đề. Thi sinh sẽ thảo luận về chủ đề đấy cùng CBHT.

    - 你的朋友多不多? 你喜欢跟什么样的人交朋友?

    - 你朋友主要是哪些人? 同学、同事还是邻居?

    - 你喜欢跟什么样的人交朋友?

    - 你有没有好朋友?

    - 在生活、学习中他们对你有什么影响?

    - 依你看, 交朋友时最重要的是什么?

    Instruction: Em hãy đọc văn bản sau và viết 01 đoạn (khoảng 100 chữ) về chủ đề có liên quan tới bài đọc.

    PHẦN ĐỌC

    请仔细阅读下面短文

    汉语是世界上最重要的国际语言之一。但学习汉语并不容易, 特别是汉字, 我在大学开始学习汉语, 到现在就要一年了, 一开始我的发音不太好, 汉子也总记不住。经过一年努力学习, 我的汉语水平已经有很大的进步。我越学越喜欢学, 觉得汉语很有意思, 汉语能为你打开一座新的大门。我可以学到很多中国文化、历史的新知识, 很有趣, 我也可以用汉语跟中国人和世界朋友交流。我会继续努力学习, 提高自己的汉语水平, 希望在不远的将来可以掌握好这种有趣的外语。

    PHẦN VIẾT

    Viết một đoạn văn dài khoảng 100 chữ theo yêu cầu dưới đây: 

    你学习汉语的经历如何? 请写一段100字左右的文介绍自己的学习经历。

    Xem thêm: Tổng hợp đề thi hết môn HLU

    Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

    Continue Reading

    Chủ đề tranh biện: 

    “Có nên quy định đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên nghiệp (nghề làm đại diện) ở Việt Nam không?”

    Quan điểm: Phản đối



    Lập luận 1:  Quy định ĐBQH hoạt động chuyên nghiệp gây ra nhiều bất cập trong việc phân công, bố trí nhân sự trong các cơ quan, tổ chức nơi có ĐBQH đang làm việc.

    - Cơ sở lập luận:

    + Dựa trên đặc thù và tính chất của chức vụ ĐBQH.

    + Dựa trên thực tế về những khó khăn trong công tác phân bổ, bổ sung các vị trí trống trong nhiệm kỳ Quốc hội mà vẫn phải đảm bảo năng lực chuyên môn và làm việc hiệu quả.

    + Dựa trên nguyên tắc về đảm bảo tính dân chủ, công bằng, minh bạch trong công tác bầu cử.

    - Phân tích lập luận:

    + Mỗi công dân trước khi được trở thành một ĐBQH, họ đều có một công việc riêng của mình. Nếu quy định ĐBQH hoạt động chuyên nghiệp, thì các công dân Việt Nam khi trúng cử, họ đương nhiên sẽ phải từ bỏ nghề nghiệp, công việc hiện tại của mình để tham gia vào Quốc hội, coi “nghề làm đại diện” là một sự nghiệp lâu dài của cuộc đời. Rõ ràng, đây là một trở ngại rất lớn cho các công dân ưu tú Việt Nam khi đã trúng cử ĐBQH nếu như họ không sẵn sàng từ bỏ công việc hiện tại của mình.

    + Trong khi đó, “nghề” ĐBQH là “nghề” có nhiệm kỳ rất ngắn (Ở Việt Nam là 5 năm), và có tính đặc thù (chỉ có thể trở thành ĐBQH khi được cử tri tin tưởng, bầu cử - cũng cần nói thêm rằng, tính đặc thù này là không thể thay đổi – hay nói cách khác: Nhà nước không nên và không được phép thiết lập một cơ chế nào để một ĐBQH có thể tiếp tục trúng cử ở nhiệm kì tiếp theo ngoài con đường bầu cử công bằng, minh bạch). Nếu họ dành toàn bộ thời gian cho “nghề làm đại diện” thì sau khi hết nhiệm kỳ hoạt động của Quốc hội, công việc tiếp theo của họ sẽ là gì?  Qủa thật cũng để có thể đảm bảo hết việc làm cho những ĐBQH sau khi hết nhiệm kỳ trong bối cảnh toàn bộ 100% thành viên Quốc hội đều hoạt động chuyên trách và chuyên nghiệp. Kể cả khi có khả năng đảm bảo được hoàn toàn việc làm cho các ĐBQH hết nhiệm kỳ, thì sau một thời gian kéo dài 5 năm không công tác trong lĩnh vực đó, liệu họ có còn đảm bảo vững vàng chuyên môn để tiếp tục đảm nhận công việc? 

    + Cũng cần lưu tâm: khi một công dân trúng cử ĐBQH thì vấn đề tìm kiếm người kế nhiệm công việc hiện tại của Đại biểu cũng là một vấn đề cần đặc biệt chú ý, đặc biệt là phải tìm một người kế nhiệm đủ năng lực, chuyên môn cao – chí ít là phải tương đương với năng lực của người công dân vừa trúng cử ĐBQH. Và đương nhiên, cũng phải xem xét vấn đề phân công công việc cho người kế nhiệm này khi vị ĐBQH đã hết nhiệm kỳ và quay trở lại công tác tại cơ sở làm việc cũ. Đó là những vấn đề chồng chéo, hết sức phức tạp rắc rối và vô cùng khó xử lý nếu như quy định ĐBQH hoạt động chuyên nghiệp được thực hiện trên thực tế .

    Lập luận 2: Việc đào tạo bài bản và chế độ đãi ngộ đối với ĐBQH chuyên nghiệp là vấn đề khó thực hiện trên thực tế.

    - Cơ sở lập luận:

    + Dựa trên tiêu chuẩn cần thiết về chuyên môn, năng lực, phẩm chất cần có của một ĐBQH nói chung và ĐBQH chuyên nghiệp nói riêng.

    + Cơ chế đào tạo cho “nghề” có tính chất đặc thù như ĐBQH gặp nhiều mâu thuẫn.

    + Khả năng áp dụng một chế độ đãi ngộ hợp lý đối với người giữ chức vụ quan trọng như một ĐBQH .

    - Phân tích lập luận:

    + Nếu coi ĐBQH hoạt động chuyên nghiệp, tức là một “nghề”, nói cách khác một công dân trước khi trở thành ĐBQH phải được đào tạo một cách quy củ về “nghề nghiệp” tương lai của mình, thì tất yếu sẽ phải thành lập các cơ sở đào tạo cho lĩnh vực này... Trong khi Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, có chức năng ban hành Hiến pháp và pháp luật, mà bản chất của pháp luật là bao quát toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội và đảm bảo bám sát các lĩnh vực, từ an ninh, quốc phòng, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại… ít nhất, để có thể hoạt động chuyên nghiệp trong Quốc hội, các vị đại biểu tương lai sẽ phải học các kỹ năng về luật pháp, làm luật, giao tiếp, thuyết phục, thương lượng, thông thạo quy trình thủ tục… Nhưng những kỹ năng này đòi hỏi một quá trình lâu dài thì mới có thể thành thạo mà nhiệm kỳ của mỗi ĐBQH chỉ là 5 năm. Rõ ràng, quả thật là bất khả thi để có thể đào tạo cho các ĐBQH một chuyên môn vững vàng trong tất cả các lĩnh vực rộng lớn của đời sống với một khoảng thời gian ngắn như vậy.

    +  Từ thực tiễn cho thấy, chuyên môn, kinh nghiệm, kiến thức của ĐBQH là tự bản thân tích lũy, trau dồi, học hỏi, nghiên cứu. Sự am hiểu về cuộc sống nhân dân của ĐBQH là cả quá trình đi thực nghiệm, tiếp xúc cử tri, lắng nghe ý kiến, phản hồi, tâm sự, mong muốn của nhân dân, trò chuyện với nhân dân, từ đó ĐBQH mới thấu hiểu ý chí nguyện vọng của nhân dân thì mới thay mặt nhân dân nói lên tiếng nói của mình. Những kinh nghiệm và vốn hiểu biết đó không thể có được trên sách vở hay qua một chương trình đào tạo nào hết.

    + Một vấn đề khác, là nếu coi ĐBQH là một “nghề” hoạt động chuyên nghiệp, thì họ sẽ được đào tạo cho “nghề” này vào thời điểm nào? Nếu như họ chỉ được đào tạo trong thời gian ngắn khi đã trúng cử trở thành ĐBQH, thì họ liệu có đảm bảo chuyên môn cho hoạt động trong Quốc hội – là một nơi cần vốn kiến thức sâu rộng trong tất cả các lĩnh vực hay không? Hay nếu xác định “nghề làm đại diện” là một sự  nghiệp lâu dài, thì họ sẽ phải được đào tạo ngay từ khi còn trẻ, trong các cơ sở giáo dục Đại học và sau Đại học. Vậy có khác nào là “cơ cấu” sẵn những người sẽ trở thành ĐBQH trong tương lai? Như vậy, sức mạnh của lá phiếu người dân hẳn nhiên đã giảm đi rất nhiều, người dân khi đó buộc phải bầu cho những người đã tốt nghiệp một cơ sở đào tạo cho ngành “làm đại diện”, đây là sự vi phạm nghiêm trọng vai trò làm chủ của nhân dân – vốn được quy định rất rõ trong Điều 2 Hiến pháp năm 2013.

    + Tiếp theo, nếu coi ĐBQH là một nghề thì tất yếu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường lao động nước ta. Vì khi đó, “nghề làm đại diện” đã được coi là một “công việc” lâu dài. Rõ ràng, đây là một vấn đề lớn, phức tạp cần được nghiên cứu, đánh giá kỹ càng về những hệ quả và tác động đi kèm đối với thị trường lao động.

    + Một nghề nghiệp, tất yếu cần được trả lương, và đương nhiên, chính chính quyền, hoặc Trung ương, hoặc địa phương sẽ phải trực tiếp trả lương cho các vị ĐBQH này. Tại Hoa Kỳ, nơi mà Nghị sĩ được quy định làm việc chuyên nghiệp, Thượng nghị sĩ và và hạ nghị sĩ được trả 174.000 USD một năm, trong khi các lãnh đạo được trả lương cao hơn. Chủ tịch hạ viện được 223.000 USD cho một năm. Có thể nhận thấy, mức lương của Nghị sĩ Mỹ thuộc mức cao so với bình quân thu nhập của các nghề nghiệp khác trong xã hội (điều này cũng là dễ hiểu bởi lẽ chỉ khi đảm bảo cuộc sống sinh hoạt cho các nghị sĩ thì họ mới có thể tập trung cho công việc của làm đại diện vốn khá vất vả và cần nhiều chất xám). Trở về Việt Nam, nếu ĐBQH cũng hoạt động chuyên nghiệp, thì mức lương dự kiến của họ chắc chắn cũng phải đủ đảm bảo cho cuộc sống sinh hoạt, thậm chí còn nên trả một mức lương cao hơn mặt bằng chung để họ có thể toàn tâm, toàn lực cho công việc đại biểu. Đây là một gánh nặng đè lên ngân sách Nhà nước, trong bối cảnh đất nước còn trong giai đoạn cần tiết kiệm tối đa ngân sách để phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội.

    Lập luận 3: ĐBQH phải là đại biểu đại diện cho toàn thể nhân dân, trước hết là đại diện cho một thành phần, tầng lớp cụ thể trong xã hội, không thể quy định thành một “nghề” chung. 

    - Cơ sở lập luận:

    + Dựa trên những quy định về nhiệm vụ làm đại diện của ĐBQH.

    + Dựa trên nguyên tắc phải đảm bảo tính dân chủ, công bằng cho mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội.

    + Việc tích lũy kinh nghiệm của ĐBQH phải thông qua sự làm việc trong lĩnh vực chuyên môn và tiếp xúc thực tế.

    - Phân tích lập luận:

    + Một vị ĐBQH đại diện cho tiếng nói của rất nhiều người dân, và Quốc hội cần thiết phải có sự tham gia của đầy đủ các thành phần, tầng lớp trong xã hội để đảm bảo quyền lợi , ý kiến của mọi tầng lớp người dân đều được lắng nghe, giữ vững khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thế nhưng, khi quy định ĐBQH hoạt động chuyên nghiệp, tức là các vị ĐBQH giờ đây có chung một nghề nghiệp là “nghề làm đại diện”, liệu khi đó, họ còn thực sự đại diện cho tầng lớp, bộ phận nhân dân đã bầu mình lên hay không? Chẳng hạn: một nông dân, công nhân ưu tú khi đông đảo nhân dân tin tưởng, bỏ phiếu và trúng cử ĐBQH, thì liệu họ có còn thực sự đứng về phía những người nông dân, công nhân, đứng về phía chính những người cùng tầng lớp với mình trước khi trở thành Đại biểu trong hoạt động lập pháp cũng như quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước hay không?

    + Cũng phải nói, quả thật là khá khó khăn để một vị Đại biểu hoạt động chuyên nghiệp có thể nắm bắt được sâu sắc, toàn diện, đúng bản chất những bất cập của đời sống xã hội khi chính họ không trực tiếp tham gia vào lĩnh vực đó, mà lại chủ yếu nghe ý kiến, đọc báo cáo, … của cử tri. Trong khi đó, một vị ĐBQH nếu vẫn tiếp tục công tác trong ngành nghề cũ của mình, thì hơn ai hết, chính họ cũng hiểu rất rõ những tồn tại, bất cập trong lĩnh vực công tác của mình. Từ đó, ý kiến đóng góp của họ cho hoạt động lập pháp của Quốc hội mới sâu sắc, toàn diện và đa chiều, từ chính những trải nghiệm thực tế của mình cũng như từ việc lắng nghe ý kiến của các cử tri thuộc phạm vi ảnh hưởng của lĩnh vực đó.

    + Một chức năng quan trọng được ghi nhận trong Hiến pháp của Quốc hội là hoạt động “giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước, giảm sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật”. Việc quy định ĐBQH hoạt động chuyên nghiệp tất yếu sẽ dẫn đến sự suy giảm hiệu quả của việc thực hiện chức năng này. Một vị ĐBQH nếu chỉ dành toàn thời gian cho hoạt động trong nghị trường, sẽ rất khó khăn trong việc trực tiếp giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước và các tổ chức xã hội khác, nhất là khi bản thân họ không còn trực tiếp công tác trong các lĩnh vực đó.

    Tựu chung lại, có thể rút ra nhận xét, việc quy định ĐBQH phải dành toàn thời gian cho hoạt động “làm đại diện” mặc dù nghe qua có thể nghĩ tới một sự toàn tâm, toàn lực của Đại biểu, thế nhưng trên thực tế, việc đại diện cho tiếng nói của nhân dân không nên và không thể tách rời khỏi cuộc sống của nhân dân, không thể chỉ đọc báo cáo, giải trình của cử tri hay thư ký giúp việc. Vị ĐBQH chỉ có thể thực sự phát huy tối đa vai trò của mình trong hoạt động lập pháp, đại diện nhân dân khi chính họ cũng đang “là nhân dân”, cũng đang trực tiếp công tác, làm việc trong một lĩnh vực cụ thể, đang sống trong một khu vực dân cư với những khó khăn bất cập rất rõ ràng. Hay nói cách khác, “công việc” làm một Đại biểu trong nghị trường, làm đại biểu cho tiếng nói của nhân dân là một “công việc” rất đặc thù, đòi hỏi vị đại biểu này phải là một công dân ưu tú, tức là không thể tách rời khỏi vai trò “nhân dân”, nhưng lại cần có một sự tài năng, phẩm chất đạo đức cao để có thể xứng đáng với vai trò là “người đại diện cho cử tri cả nước’’.

    Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU

    Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

    Continue Reading


    MỞ ĐẦU

    HĐLĐ là một trong các chế định quan trọng nhất của pháp luật lao động. Việc xây dựng và ban hành các quy định về HĐLĐ có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của NLĐ và NSDLĐ, giúp ổn định và hài hoà hóa quan hệ lao động trong doanh nghiệp.

    Chấm dứt HĐLĐ là một trong những công cụ hiệu quả mà pháp luật dành cho NLĐ và NSDLĐ để các chủ thể này tự bảo vệ quyền lợi của mình, tự mình thực hiện quyền tự do lựa chọn việc làm, tự do tuyển dụng và bố trí lao động phù hợp với nhu cầu sản xuất, kinh doanh. Việc chấm dứt HĐLĐ kéo theo nhiều hậu quả pháp lý, trong đó có việc giải quyết quyền lợi của mỗi bên trong HĐLĐ. Để có một cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề này, sau đây em xin trình bày về đề tài: “Phân tích thực trạng pháp luật lao động Việt Nam về quyền lợi của các bên khi chấm dứt HĐLĐ và đề xuất các kiến nghị.”

    NỘI DUNG

    I. Một số vấn đề chung về quyền lợi của các bên khi chấm dứt HĐLĐ

    1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại chấm dứt HĐLĐ

    Chấm dứt HĐLĐ là sự kiện pháp lý làm chấm dứt quyền và nghĩa vụ của NLĐ và NSDLĐ.  Chấm dứt HĐLĐ có những đặc điểm pháp lý sau đây:

    Thứ nhất, chấm dứt HĐLĐ là chấm dứt sự ràng buộc về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động. Khi HĐLĐ chấm dứt, quyền và nghĩa vụ của các bên ghi trong HĐLĐ sẽ đồng thời chấm dứt.

    Thứ hai, chấm dứt HĐLĐ có thể hợp pháp hoặc bất hợp pháp. Chấm dứt HĐLĐ hợp pháp là trường hợp các bên chủ thể thực hiện việc chấm dứt HĐLĐ đảm bảo các quy định pháp luật về căn cứ, thủ thục chấm dứt HĐLĐ. Chấm dứt HĐLĐ bất hợp pháp là các trường hợp chấm dứt HĐLĐ vi phạm các quy định của pháp luật về căn cứ hoặc thủ tục chấm dứt HĐLĐ.

    Thứ ba, chấm dứt HĐLĐ tạo ra những hậu quả pháp lý đa dạng. Việc chấm dứt HĐLĐ trong bất kỳ điều kiện nào cũng làm phát sinh những hậu quả pháp lý nhất định và những hậu quả này không hoàn toàn giống nhau.

    Căn cứ vào ý chí của các bên chủ thể khi chấm dứt HĐLĐ, có thể chia việc chấm dứt HĐLĐ thành các loại:

    - Chấm dứt HĐLĐ do ý chí của hai bên, bao gồm:

    (1) Hết hạn HĐLĐ;

    (2) Đã hoàn thành công việc theo HĐLĐ;

    (3) Hai bên thỏa thuận chấm dứt HĐLĐ. 

    - Chấm dứt HĐLĐ do ý chí của một bên, bao gồm:

    (4) NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ;

    (5) NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ;

    (7) NLĐ bị xử lý kỷ luật sa thải;

    (8) NSDLĐ cho NLĐ thôi việc trong trường hợp thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế; hoặc trong trường hợp chia, tách, hợp nhất, sáp nhập; bán, cho thuê, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp; chuyển nhượng quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã;

    (9) NLĐ thử việc không đạt yêu cầu hoặc một bên hủy bỏ thỏa thuận thử việc.

    - Chấm dứt HĐLĐ do ý chí của người thứ ba, bao gồm:

    (10) NLĐ bị kết án phạt tù nhưng không được hưởng án treo hoặc không thuộc trường hợp được trả tự do, tử hình hoặc bị cấm làm công việc ghi trong HĐLĐ theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

    (11) NLĐ là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam bị trục xuất theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

    (12) NLĐ chết; bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết.

    (13) NSDLĐ là cá nhân chết; bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết. NSDLĐ không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động hoặc bị cơ quan chuyên môn về đăng ký kinh doanh thuộc UBND cấp tỉnh ra thông báo không có người đại diện theo pháp luật, người được ủy quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật.

    2. Khái niệm, đặc điểm quyền lợi của các bên khi chấm dứt HĐLĐ

    Có thể hiểu, quyền lợi của các bên khi chấm dứt HĐLĐ là những lợi ích về vật chất hoặc tinh thần mà NLĐ và NSDLĐ được hưởng khi quan hệ HĐLĐ giữa NLĐ và NSDLĐ kết thúc. Quyền lợi của các bên khi chấm dứt HĐLĐ có những đặc điểm sau:

    Thứ nhất, quyền lợi của NLĐ và NSDLĐ khi chấm dứt HĐLĐ rất đa dạng, tùy từng trường hợp chấm dứt HĐLĐ.

    Thứ hai, quyền lợi của NLĐ khi chấm dứt HĐLĐ có mối tương quan chặt chẽ với quyền lợi của NSDLĐ bởi đây là hai chủ thể trực tiếp và mang tính đối lập nhau trong quan hệ lao động.

    Thứ ba, quyền lợi của các bên khi chấm dứt HĐLĐ còn chịu sự tác động, chi phối bởi lợi ích Nhà nước và xã hội với vai trò điều tiết và cân bằng các quan hệ trong thị trường.

    II. Thực trạng pháp luật lao động Việt Nam về quyền lợi của các bên khi chấm dứt HĐLĐ

    1. Quy định của pháp luật hiện hành về quyền lợi của NLĐ khi chấm dứt HĐLĐ

    1.1. Tiền lương chưa thanh toán

    Điều 94 BLLĐ 2019 quy định về nguyên tắc trả lương như sau:

    “1. Người sử dụng lao động phải trả lương trực tiếp, đầy đủ, đúng hạn cho người lao động. Trường hợp người lao động không thể nhận lương trực tiếp thì người sử dụng lao động có thể trả lương cho người được người lao động ủy quyền hợp pháp.

    2. Người sử dụng lao động không được hạn chế hoặc can thiệp vào quyền tự quyết chi tiêu lương của người lao động; không được ép buộc người lao động chi tiêu lương vào việc mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ của người sử dụng lao động hoặc của đơn vị khác mà người sử dụng lao động chỉ định.”

    Khi chấm dứt HĐLĐ, mọi NLĐ đều được nhận tiền lương cho những ngày làm việc chưa được thanh toán dù nghỉ việc theo trường hợp nào. NSDLĐ không được giam lương, không trả lương cho NLĐ khi NLĐ nghỉ việc vì bất kỳ lý do gì.

    1.2. Trợ cấp thôi việc

    * Đối tượng và điều kiện hưởng trợ cấp thôi việc:

    Theo quy định tại Điều 46 BLLĐ 2019, NLĐ nghỉ việc đáp ứng các điều kiện sau thì được nhận trợ cấp thôi việc:

    (1) HĐLĐ chấm dứt thuộc một trong các trường hợp:

    - Hết hạn HĐLĐ, trừ trường hợp phải gia hạn HĐLĐ đã giao kết đến hết nhiệm kỳ cho NLĐ là thành viên ban lãnh đạo của tổ chức đại diện NLĐ tại cơ sở đang trong nhiệm kỳ mà hết hạn HĐLĐ;

    - Đã hoàn thành công việc theo HĐLĐ;

    - Hai bên thỏa thuận chấm dứt HĐLĐ;

    - NLĐ bị kết án phạt tù nhưng không được hưởng án treo hoặc không thuộc trường hợp được trả tự do, tử hình hoặc bị cấm làm công việc ghi trong HDLĐ theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật;

    - NLĐ chết; bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết;

    - NSDLĐ là cá nhân chết; bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết. NSDLĐ không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động hoặc bị cơ quan chuyên môn về đăng ký kinh doanh thuộc UBND cấp tỉnh ra thông báo không có người đại diện theo pháp luật, người được ủy quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật;

    - NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ theo quy định;

    - NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ theo quy định.

    (2) Đã làm việc thường xuyên cho NSDLĐ từ đủ 12 tháng trở lên.

    NLĐ thuộc các trường hợp sau thì không được hưởng trợ cấp thôi việc:

    - Đủ điều kiện hưởng lương hưu theo quy định tại Điều 169 BLLĐ 2019 và pháp luật về BHXH;

    - Tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ 05 ngày làm việc liên tục trở lên. 

    * Mức hưởng trợ cấp thôi việc:

    Tiền trợ cấp thôi việc = 1/2 x Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc x Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc

    Trong đó:

    - Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc = tổng thời gian NLĐ đã làm việc thực tế cho NSDLĐ – (thời gian NLĐ đã tham gia BHTN + thời gian làm việc đã được NSDLĐ chi trả trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm)

    - Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân của 06 tháng liền kề theo HĐLĐ trước khi NLĐ thôi việc.

    1.3. Trợ cấp mất việc làm

    * Đối tượng và điều kiện hưởng trợ cấp mất việc làm:

    Theo quy định tại Điều 47 BLLĐ 2019, NLĐ nghỉ việc đáp ứng các điều kiện sau thì được nhận trợ cấp mất việc làm:

    (1) NLĐ đã làm việc thường xuyên cho NSDLĐ từ đủ 12 tháng trở lên 

    (2) Bị mất việc làm trong trường hợp: 

    - Thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế;

    - Chia, tách, hợp nhất, sáp nhập; bán, cho thuê, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp; chuyển nhượng quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.

    * Mức hưởng trợ cấp mất việc làm:

    Tiền trợ cấp mất việc làm = Thời gian làm việc tính hưởng trợ cấp x Tiền lương tháng tính hưởng trợ cấp

    Trong đó:

    - Trợ cấp mất việc ít nhất bằng 02 tháng tiền lương.

    - Thời gian làm việc để tính trợ cấp mất việc làm = tổng thời gian NLĐ đã làm việc thực tế cho NSDLĐ – (thời gian NLĐ đã tham gia BHTN + thời gian làm việc đã được NSDLĐ chi trả trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm)

    - Tiền lương để tính trợ cấp mất việc làm là tiền lương bình quân của 06 tháng liền kề theo HĐLĐ trước khi NLĐ mất việc làm.

    1.4. Chế độ BHXH

    Khi chấm dứt HĐLĐ mà NLĐ đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí, chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thì đơn vị sử dụng lao động phải có trách nhiệm làm đầy đủ thủ tục chuyển cho cơ quan BHXH để thực hiện các chế độ cấp hưu trí, chế độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho NLĐ. Tùy thuộc vào từng trường hợp chấm dứt và độ tuổi, thời gian đóng BHXH hay mức độ thương tật mà NLĐ được hưởng chế độ trợ cấp BHXH với mức khác nhau.

    1.5. Trợ cấp thất nghiệp

    * Đối tượng và điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp:

    Theo quy định tại Điều 49 Luật Việc làm 2013, NLĐ đang đóng BHTN được hưởng trợ cấp thất nghiệp khi có đủ các điều kiện sau:

    (1) Chấm dứt HĐLĐ trừ các trường hợp: 

    - NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật; 

    - Hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng;

    (2) Đã đóng BHTN:

    - Từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt HĐLĐ  đối với HĐLĐ xác định thời hạn và HĐLĐ không xác định thời hạn; 

    - Từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt HĐLĐ đối với HĐLĐ theo mùa vụ hoặc công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng.

    (3) Đã nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày chấm dứt HĐLĐ.

    (4) Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng BHTN, trừ các trường hợp: Thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an; Đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên; Chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; Bị tạm giam; chấp hành hình phạt tù; Ra nước ngoài định cư; đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng; NLĐ chết.

    * Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng = 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng BHTN của 06 tháng liền kề trước khi thất nghiệp 

    Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp tối đa không quá 05 lần mức lương cơ sở đối với NLĐ thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định; không quá 05 lần mức lương tối thiểu vùng đối với NLĐ đóng BHTN theo chế độ tiền lương do NSDLĐ quyết định tại thời điểm chấm dứt HĐLĐ hoặc hợp đồng làm việc.

    Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính theo số tháng đóng BHTN: Đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng thì được hưởng 03 tháng trợ cấp thất nghiệp. Sau đó, cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 01 tháng trợ cấp thất nghiệp nhưng tối đa không quá 12 tháng.

    Thời điểm hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính từ ngày thứ 16, kể từ ngày nộp đủ hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp.

    1.6. Một số quyền lợi khác của NLĐ

    * Tiền phép năm chưa nghỉ hết

    Khoản 3 Điều 113 BLLĐ 2019 quy định: “Trường hợp do thôi việc, bị mất việc làm mà chưa nghỉ hằng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm thì được người sử dụng lao động thanh toán tiền lương cho những ngày chưa nghỉ.”

    Như vậy, trong trường hợp chấm dứt HĐLĐ mà chưa nghỉ hằng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm thì NLĐ được NSDLĐ thanh toán tiền lương cho những ngày chưa nghỉ.

    * Quyền lợi liên quan đến tài liệu, hồ sơ, thủ tục

    Theo quy định tại khoản 3 Điều 48 BLLĐ 2019, khi chấm dứt HĐLĐ, NLĐ sẽ được NSDLĐ:

    - Hoàn thành thủ tục xác nhận thời gian đóng BHXH, BHTN và trả lại cùng với bản chính giấy tờ khác nếu NSDLĐ đã giữ của NLĐ;

    - Cung cấp bản sao các tài liệu liên quan đến quá trình làm việc của NLĐ nếu có yêu cầu. Chi phí sao, gửi tài liệu do NSDLĐ trả.

    * Quyền lợi trong trường hợp NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật

    Theo quy định tại Điều 41 BLLĐ 2019, trong trường hợp NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật thì NLĐ có các quyền lợi sau:

    - Được NSDLĐ nhận trở lại làm việc theo HĐLĐ đã giao kết; được trả tiền lương, đóng BHXH, BHYT, BHTN trong những ngày không được làm việc và được trả thêm một khoản tiền ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo HĐLĐ. Trường hợp NSDLĐ vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì NLĐ được trả một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo HĐLĐ trong những ngày không báo trước.

    - Trường hợp NLĐ không muốn tiếp tục làm việc thì ngoài khoản tiền nêu trên, NLĐ còn được nhận trợ cấp thôi việc.

    - Trường hợp NSDLĐ không muốn nhận lại NLĐ và NLĐ đồng ý thì ngoài khoản tiền nêu trên và trợ cấp thôi việc, NLĐ còn được nhận khoản tiền bồi thường thêm ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo HĐLĐ do hai bên thỏa thuận.

    Theo quy định tại khoản 1 Điều 48 BLLĐ 2019, trong thời hạn 14 ngày làm việc kể từ ngày chấm dứt HĐLĐ, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản tiền có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên, trừ trường hợp sau đây có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày:

    (1) NSDLĐ không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động;

    (2) NSDLĐ thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế;

    (3) Chia, tách, hợp nhất, sáp nhập; bán, cho thuê, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp; chuyển nhượng quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã;

    (4) Do thiên tai, hỏa hoạn, địch họa hoặc dịch bệnh nguy hiểm.

    2. Quy định của pháp luật hiện hành về quyền lợi của NSDLĐ khi chấm dứt HĐLĐ

    Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 40 BLLĐ 2019, trong trường hợp NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật thì NSDLĐ được NLĐ:

    - Bồi thường nửa tháng tiền lương theo HĐLĐ;

    - Bồi thường một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo HĐLĐ trong những ngày không báo trước.

    Đối với NLĐ đã được NSDLĐ bỏ chi phí đào tạo với cam kết làm việc cho NSDLĐ sau khi học xong, khi chấm dứt HĐLĐ chưa thực hiện xong cam kết về thời gian làm việc theo hợp đồng đào tạo nghề thì NSDLĐ sẽ được NLĐ hoàn trả lại chi phí đào tạo. Theo khoản 3 Điều 62 BLLĐ 2019, chi phí đào tạo bao gồm các khoản chi có chứng từ hợp lệ về chi phí trả cho người dạy, tài liệu học tập, trường, lớp, máy, thiết bị, vật liệu thực hành, các chi phí khác hỗ trợ cho người học và tiền lương, tiền đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người học trong thời gian đi học. Trường hợp NLĐ được gửi đi đào tạo ở nước ngoài thì chi phí đào tạo còn bao gồm chi phí đi lại, chi phí sinh hoạt trong thời gian đào tạo. Mức bồi hoàn có thể là một phần hoặc toàn bộ phí đào tạo tùy theo thỏa thuận các các bên khi giao kết hợp đồng đào tạo nghề.

    III. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quyền lợi của các bên khi chấm dứt HĐLĐ

    Thứ nhất, việc cho phép NLĐ dễ dàng đơn phương chấm dứt HĐLĐ bên cạnh việc bảo đảm nguyên tắc bảo vệ NLĐ cũng tiềm ẩn nguy cơ NLĐ lợi dụng quy định này gây xáo trộn hoạt động của doanh nghiệp. Do đó, để kiểm soát các trường hợp đơn phương chấm dứt HĐLĐ thiếu thiện chí hoặc không chính đáng, cần quy định về BHTN theo hướng chỉ áp dụng cho những trường hợp NLĐ thất nghiệp do những nguyên nhân ngoài ý muốn của họ, có nghĩa là trong trường hợp NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ không vì bất kỳ lý do gì quy định tại khoản 2 Điều 35 BLLĐ 2019 thì họ sẽ không được hưởng BHTN.

    Thứ hai, cần sửa đổi, bổ sung quy định trách nhiệm của NLĐ khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật. Mặc dù các quy định của pháp luật hiện hành muốn bảo vệ NLĐ, đảm bảo đảm quyền tự do làm việc của NLĐ, nhưng cũng phải đảm bảo quyền, lợi ích của NSDLĐ bị thiệt hại do hành vi đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NLĐ. Do đó, trường hợp NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật mà chỉ phải “bồi thường cho NSDLĐ nửa tháng lương theo HĐLĐ” là chưa hợp lý, không đảm bảo quyền lợi và các chi phí bỏ ra của NSDLĐ. Vì vậy, cần xem xét tăng mức bồi thường thiệt hại từ “nửa tháng tiền lương” lên một tháng hoặc hai tháng tiền lương theo HĐLĐ, nhằm ràng buộc mức trách nhiệm của NLĐ; hạn chế việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NLĐ. Ngoài ra, trong một số trường hợp nếu gây ra thiệt hại lớn, gây bất ổn trong đơn vị thì ngoài việc phải bồi thường một, hai tháng tiền lương, còn phải bồi thường những thiệt hại khác phát sinh cho NSDLĐ.

    KẾT LUẬN

    Những phân tích trên đây đã phần nào khái quát được các quy định của pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về quyền lợi của NLĐ và NSDLĐ khi chấm dứt HĐLĐ. Nhìn chung, các quy định của pháp luật hiện hành hướng tới bảo vệ quyền lợi của NLĐ nhiều hơn NSDLĐ. Các quy định hiện hành cũng đã bảo vệ khá toàn diện quyền lợi của các bên khi chấm dứt HĐLĐ, tuy nhiên vẫn cần phải tiếp tục hoàn thiện để đảm bảo cân bằng lợi ích giữa các bên. 

    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

    1. Bộ luật Lao động 2019

    2. Bộ luật Lao động 2012

    3. Luật Việc làm 2013

    4. Dương Công Luyện (2021), Trách nhiệm và quyền lợi của các bên khi chấm dứt hợp đồng lao động, Trang thông tin phổ biến, giáo dục pháp luật tỉnh Lạng Sơn, http://pbgdpl.langson.gov.vn/index.php/tin-t-c/item/562-traach-nhiaaam-vaa-quyaaan-laaai-caaaa-caac-baan-khi-chaaam-daaat-haaap-aaang-lao-aaang (truy cập ngày 27/12/2021)

    5. Đoàn Hoa (2021), Những điểm mới của Bộ luật Lao động năm 2019 về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và những tác động đến quan hệ lao động, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam, https://lsvn.vn/nhung-diem-moi-cua-bo-luat-lao-dong-nam-2019-ve-quyen-don-phuong-cham-dut-hop-dong-lao-dong-va-nhung-tac-dong-den-quan-he-lao-dong1636686996.html (truy cập ngày 27/12/2021)

    6. TS. Đoàn Thị Phương Diệp (2020), Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 11 (411), tháng 6/2020, http://www.lapphap.vn/Pages/TinTuc/210563/Quyen-don-phuong-cham-dut-hop-dong-lao-dong-cua-nguoi-lao-dong-theo-quy-dinh-cua-Bo-luat-Lao-dong-nam-2019.html 

    7. ThS. Lê Văn Đức (2019), Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 16 (392), tháng 8/2019

    8. Lưu Bình Nhưỡng chủ biên, Nguyễn Xuân Thu, Đỗ Thị Dung (2015), Bình luận khoa học Bộ luật Lao động năm 2012, NXB Lao động, Hà Nội

    http://www.lapphap.vn/Pages/TinTuc/210345/Trach-nhiem-boi-thuong-thiet-hai-cua-nguoi-lao-dong-khi-don-phuong-cham-dut-hop-dong-lao-dong.html 

    9. Nguyễn Thị Ngọc Tú (2015), Chấm dứt hợp đồng lao động, quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội

    10. Luật sư Nguyễn Thị Thanh (2019), Chế độ đối với người đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam, https://lsvn.vn/che-do-doi-voi-nguoi-don-phuong-cham-dut-hop-dong-lao-dong.html (truy cập ngày 27/12/2021)

    11. Phạm Liên (2021), Quyền lợi của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đúng luật, Trang thông tin phổ biến, giáo dục pháp luật thành phố Hải Phòng, https://pbgdpl.haiphong.gov.vn/Cong-tac-PBGDPL/Quyen-loi-cua-nguoi-lao-dongkhi-don-phuong-cham-dut-hop-dong-lao-dong-dung-luat-56842.html (truy cập ngày 27/12/2021)

    12. Thanh Hà (2020), Quyền lợi sau khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam, https://lsvn.vn/quyen-loi-sau-khi-don-phuong-cham-dut-hop-dong-lao-dong.html (truy cập ngày 27/12/2021)

    13. Thanh Thanh (2020), Quyền lợi của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam, https://lsvn.vn/quyen-loi-cua-nguoi-lao-dong-khi-don-phuong-cham-dut-hop-dong-lao-dong.html (truy cập ngày 27/12/2021)

    14. Trà My (2020), Tăng thời hạn giải quyết chấm dứt hợp đồng lao động từ 2021, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam, https://lsvn.vn/tang-thoi-han-giai-quyet-cham-dut-hop-dong-lao-dong-tu-2021.html (truy cập ngày 27/12/2021)

    15. TS. Trần Hoàng Hải, ThS. Đỗ Hải Hà (2011),  Hoàn thiện quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, http://www.lapphap.vn/Pages/TinTuc/207539/Hoan-thien-quy-dinh-ve-trach-nhiem-cua-nguoi-su-dung-lao-dong-don-phuong-cham-dut-hop-dong-lao-dong-trai-phap-luat.html (truy cập ngày 27/12/2021)

    16. Trần Thị Thúy Lâm, Đỗ Thị Dung đồng chủ biên, Hà Thị Hoa Phương, Đoàn Xuân Trường, Nguyễn Tiến Dũng (2021), Bình luận những điểm mới của Bộ luật Lao động năm 2019, NXB Lao động, Hà Nội

    17. Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Bình luận khoa học một số quy định của Bộ luật Lao động 2012, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Hà Nội

    18. Vũ Thị Thanh Hậu (2016), Quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội

    Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU

    Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

    Continue Reading
    Newer
    Stories
    Older
    Stories

    About me

    REY A law practitioner

    Một người trẻ đam mê và đang trên con đường theo đuổi ngành Luật. Tốt nghiệp Cử nhân Luật tại HLU và đang học Luật sư & Thạc sĩ Luật. Read More

    Donate me

    Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha:
    BIDV

    Follow me on Facebook

    Follow me on Youtube

    Labels

    CHUYỆN ĐI LÀM (3) ĐỀ THI HẾT MÔN (14) HỌC LUẬT Ở HLU (6) HỌC LUẬT SƯ (6) LUẬT HÀNH CHÍNH (47) LÝ LUẬN CHUNG (111) TIỂU LUẬN (50)

    Cảm ơn đã ghé thăm

    recent posts

    Popular Posts

    • Phân tích đặc trưng cơ bản của nhà nước. Trên cơ sở đó, làm sáng tỏ biểu hiện một đặc trưng của nhà nước Việt Nam hiện nay.
    • 80 CÂU VẤN ĐÁP LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT (có đáp án)

    Blog Archive

    • tháng 8 2025 (1)
    • tháng 6 2024 (2)
    • tháng 3 2024 (2)
    • tháng 2 2024 (1)
    • tháng 1 2024 (8)
    • tháng 10 2023 (30)
    • tháng 9 2023 (115)
    • tháng 8 2023 (73)
    facebook youtube

    Created with by BeautyTemplates

    Back to top