Được tạo bởi Blogger.
facebook youtube

Rey & Law

    • Home
    • HỌC LUẬT Ở HLU
    • HỌC LUẬT SƯ
    • HỌC THẠC SĨ
    • CHUYỆN ĐI LÀM
    • TỰ HỌC LUẬT

     

    MỞ ĐẦU

    Trong thời đại ngày nay, mỗi quốc gia dân tộc đều có quyền lựa chọn con đường, sự phát triển cho chính mình sao cho phù hợp với xu thế chung của thời đại, với quy luật khách quan của lịch sử và nhu cầu, khát vọng của dân tộc. Do vậy, Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan hoàn toàn phù hợp với xu thế chung đó. Trên thực tế, Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là quá trình lâu dài và nhiều thách thức, trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội phức tạp, nhiều khó khăn, nhất là bối cảnh thế giới đang chao đảo giữa đại dịch Covid-19 trong một thời gian dài chưa có dấu hiệu khả quan. Do đó, trước thời cơ, và nguy cơ, thách thức đan xen nhau đó, việc tìm hiểu nâng cao nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là việc làm mang tính cấp thiết, có tầm quan trọng đặc biệt đối với nhận thức và hành động của mỗi chúng ta trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy nhóm 3 chúng em xin phép lựa chọn nghiên cứu đề tài số 6: “Lý luận của Chủ nghĩa xã hội khoa học về đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và biểu hiện của đặc điểm đó ở xã hội Việt Nam hiện nay”

    Do còn nhiều hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên bài tập của nhóm em khó tránh khỏi những sai sót, rất mong được các thầy cô đóng góp ý kiến để bài làm chúng em được hoàn thiện.                      

    Chúng em xin chân thành cảm ơn!

    NỘI DUNG

    1. Quan điểm của Chủ nghĩa xã hội khoa học về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

    Thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa là khoảng thời gian chuyển từ xã hội tư bản chủ nghĩa đến xã hội chủ nghĩa

    1.1. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên CNXH

    Tính tất yếu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội được lý giải từ các căn cứ sau:

    Một là, chủ nghĩa tư bản và xã hội khác nhau về bản chất. Chủ nghĩa tư bản được xây dựng trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất; chế độ áp bức, bóc lột. Chủ nghĩa xã hội xây dựng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; không còn áp bức, bóc lột. Muốn có xã hội như vậy cần phải có một thời kì lịch sử nhất định.

    Hai là, quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo tiền đề vật chất-kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội, nhưng muốn cho tiền đề đó phục vụ cho chủ nghĩa xã hội cần có thời gian tổ chức, sắp xếp lại, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát sinh trong lòng tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng, cải tạo xã hội chủ nghĩa và dù

    Ba là,  ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo tiền đề hình thành quan hệ mới xã hội chủ nghĩa do vậy cũng cần thời gian xây dựng, phát triển.

    Bốn là, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công cuộc mới mẻ, khó khăn, cần có thời gian để giai cấp công nhân từng bước làm quen với những công việc đó.

    Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã nêu ra hai kiểu quá độ: quá độ trực tiếp và quá độ gián tiếp từ CNTB lên CNXH.                                                          

    1.2. Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ lên CNXH

    Đặc điểm nổi bật của thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội.

    1.2.1. Trên lĩnh vực kinh tế: Sự phát triển chưa đồng đều của lực lượng sản xuất trong thời kì này quy định tính tất yếu khách quan trong sự tại nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có thành phần đối lập

    1.2.2. Trên lĩnh vực chính trị: bản chất nhất thời của thời kì quá độ là sự quá độ về chính trị, ở đó nhà nước chuyên chính vô sản được thiết lập, củng cố và ngày càng hoàn thiện. Đây là sự thống trị về chính trị của giai cấp công nhân với chức năng thực hiện dân chủ với nhân dân, tổ chức xây dựng và bảo vệ chế độ mới; là tiếp tục cuộc đấu tranh giai cấp giữa vô sản đã chiến thắng nhưng chưa thắng hoàn toàn với giai cấp tư sản thất bại nhưng chưa thất bại hoàn toàn.

    1.2.3. Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa: còn tồn tại nhiều loại tư tưởng, văn hóa tinh thần khác nhau, có cả sự đối lập. Bên cạnh nền văn hóa mới, lối sống vừa xây dựng còn tồn tại những tàn tích của nền văn hóa cũ, lối sống cũ, tư tưởng  lạc hậu, thậm chí phản động gây cản trở không nhỏ cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của các dân tộc sau khi mới giải phóng.

    1.2.4. Trên lĩnh vực xã hội: Trong thời kì này còn có sự khác biệt cơ bản giữa thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi, lao động trí óc và lao động chân tay, vấn đề bình đẳng và công bằng xã hội cần phải được xác lập dần.

    1.3. Nội dung của thời kỳ quá độ lên CNXH

    1.3.1. Trong lĩnh vực kinh tế:

    - Sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất hiện có của xã hội, tuân theo tính tất yếu khách quan của các quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

    - Cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, bảo đảm phục vụ đời sống nhân dân lao động tốt hơn.

    - Đối với những nước chưa trải qua quá trình công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa, tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra được cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.

    1.3.2. Trong lĩnh vực chính trị

    - Tiến hành cuộc đấu tranh chống lại những thế lực thù địch, chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội

    - Tiến hành xây dựng, củng cố nhà nước và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, bảo đảm quyền làm chủ trong hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nhân dân lao động

    - Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh ngang tầm với các nhiệm vụ của mỗi thời kỳ lịch sử.

    1.3.3. Trong lĩnh vực tư tưởng – văn hóa

    - Thực hiện tuyên truyền phổ biến những tư tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân trong toàn xã hội

    - Từng bước xây dựng văn hóa vô sản, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại

    1.3.4. Trong lĩnh vực xã hội

    - Khắc phục tệ nạn do xã hội cũ để lại

    - Từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội

    - Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người theo mục tiêu lý tưởng tự do của người này là điều kiện, tiền đề cho sự tự do của người khác

    2. Biểu hiện của những đặc điểm trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay

    2.1. Trên lĩnh vực kinh tế

    Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, về phương diện kinh tế, tất yếu tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có thành phần đối lập. Đề cập tới đặc trưng này, V.I. Lenin cho rằng: “Vậy thì danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có”. Đồng thời, V.I. Lênin đã nêu ra: “Những hình thức cơ bản ấy của nền kinh tế xã hội là: chủ nghĩa tư bản, tiểu sản xuất hàng hóa, chủ nghĩa cộng sản”

    Nền kinh tế nhiều thành phần là bước quá độ trung gian tất yếu trong quá trình xây dựng CNXH, không thể dùng ý chí để xóa bỏ nó ngay được. Bởi vì trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều quan hệ sản xuất, bao gồm cả quan hệ sản xuất tàn dư, thống trị và mầm mống nên tất yếu phải có nhiều thành phần kinh tế. Trong điều kiện nền kinh tế quá độ là nền kinh tế nhiều thành phần, V.I. Lênin khẳng định: Không thể quá độ trực tiếp lên CNXH mà phải qua con đường gián tiếp, không thể quá vội vàng, thẳng tuột, không được chuẩn bị.

    Ở Việt Nam giai đoạn hiện nay, Đảng ta thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là việc thực hiện tư tưởng kinh tế của V.I. Lênin trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, (được thông qua tại Đại hội XI - năm 2011), Đảng ta xác định: "Nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp". Từ đó, vạch ra định hướng lớn trong phát triển kinh tế của đất nước, đó là: Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

    Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta xác định: “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Là nền kinh tế có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực chủ đạo của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật..."

    Thực hiện tư tưởng kinh tế của V.I. Lênin vào thời kỳ quá độ, đến nay, nền kinh tế nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn thách thức, tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011-2020 dự kiến đạt khoảng 6,4%/năm; quy mô và tiềm lực được nâng lên (quy mô nền kinh tế đã đạt gần 300 tỷ USD. GDP bình quân đầu người đạt 3.000 USD); cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự phát triển khởi sắc về kinh tế đã góp phần nâng cao đời sống của nhân dân, làm cho con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng sáng rõ hơn.

    Mặc dù V.I. Lênin đã đi xa nhưng tư tưởng kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Người vẫn còn nguyên giá trị. Kỷ niệm 150 năm ngày sinh V.I. Lênin (22/4/1870-22/4/2020), việc bảo vệ và tiếp tục vận dụng sáng tạo, bổ sung phát triển những tư tưởng của Người trong điều kiện mới là nhiệm vụ quan trọng đặt ra đối với cách mạng Việt Nam để đi tới thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng thành công CNXH trên đất nước ta.

    2.2 Trên lĩnh vực chính trị

    Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội về phương diện chính trị là việc thiết lập, tăng cường chuyên chính vô sản, mà thực chất của nó là việc giai cấp công nhân nắm và sử dụng quyền lực nhà nước trấn áp giai cấp tư sản, tiến hành xây dựng một xã hội không giai cấp. Đây là sự thống trị về chính trị của giai cấp công nhân với chức năng thực hiện dân chủ đối với nhân dân, tổ chức xây dựng và bảo vệ chế độ mới, chuyên chính với những phần tử thù địch, chống lại nhân dân. Cuộc đấu tranh diễn ra trong điều kiện mới – giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp cầm quyền, với nội dung mới – xây dựng toàn diện xã hội mới, trọng tâm là xây dựng nhà nước có tính kinh tế, và hình thức mới – cơ bản là hòa bình tổ chức xây dựng.

    Thứ nhất, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã kiên định giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách là Đảng duy nhất cầm quyền, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng.

    Điều 4 Hiến pháp Việt Nam 2013 đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với toàn thể đất nước và nhân dân Việt Nam. Đảng lãnh đạo nhà nước bằng cách đề ra các chủ trương, đường lối về đối nội, đối ngoại để nhà nước thể chế thành pháp luật và tổ chức thực hiện. Đảng bồi dưỡng cán bộ cho nhà nước, giới thiệu Đảng viên và người ngoài đảng đủ năng lực và phẩm chất để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, bố trí vào những vị trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước. Đảng thường xuyên giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, tác phong cho cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước. Đảng chỉ đạo công cuộc cải cách, hoàn thiện bộ máy nhà nước và cuộc đấu tranh chống tiêu cực trong bộ máy nhà nước hiện nay.

    Thứ hai, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, công tác bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn.

    Tuyên truyền chống phá cách mạng Việt Nam luôn là âm mưu cơ bản, lâu dài của các thế lực thù địch. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, thủ đoạn chống phá ngày càng thâm độc và xảo quyệt. Từ kích động tuần hành, biểu tình, tạo cớ đẩy lên thành bạo loạn; từ thăm dò phản ứng, hiệu quả ứng phó của cơ quan chức năng, chúng có thể tập dượt để đi tới tổng biểu tình đi kèm bạo loạn lật đổ chính quyền, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

    Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động đã lợi dụng bối cảnh tổ chức Đại hội Đảng, chuẩn bị tổ chức bầu cử ĐBQH và ĐB HĐND các cấp để xuyên tạc sự lãnh đạo của Đảng, hạ thấp danh dự, uy tín của các cán bộ lãnh đạo, gây tâm lý hoài nghi, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Trong thời gian tổ chức Đại hội XIII của Đảng, công an đã xử lý gần 500 trường hợp đăng tải, chia sẻ thông tin xuyên tạc, sai sự thật, gây hoang mang dư luận, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự; đã gọi hỏi, răn đe trên 1.000 đối tượng tung tin giả mạo.

    Trên thực tế, nhiều đối tượng sử dụng các trang mạng xã hội để đăng tải, tuyên truyền nội dung chống phá Đảng và nhà nước đã bị bắt và đưa ra xét xử, như Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy, Lê Hữu Minh Tuấn về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống phá Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam", Trần Đức Thạch về tội "Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân"…

    Thứ ba, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam chú trọng phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

    Quốc hội, với tư cách đại biểu của nhân dân, đang ngày càng có những chuyển biến tích cực, ngày càng dân chủ và hiệu quả. Quốc hội đang ngày càng làm tốt hơn chức năng lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Trong các khóa gần đây, hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn trong các kỳ họp Quốc hội, HĐND thật sự sôi nổi, dân chủ, phát huy được vai trò của đại biểu, được nhân dân ghi nhận. Nhiều phản ánh của cử tri cả nước đã được các cơ quan nhà nước lắng nghe, công tác giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân đã có nhiều tiến bộ.

    Thứ tư, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, kiên quyết đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

    Văn kiện Đại hội XIII đã xác định phải xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Trong đó có một số các lực lượng quân binh chủng tiến lên hiện đại, đã mạnh rồi thì phải mạnh hơn nữa để đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. 

    2.3. Trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa

    Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay còn tồn tại nhiều tư tưởng khác nhau, chủ yếu là tư tưởng vô sản và tư tưởng tư sản. Giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản từng bước xây dựng văn hóa vô sản, nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, bảo đảm đáp ứng nhu cầu văn hóa- tinh thần ngày càng tăng của nhân dân.

    Hiện nay, sự biến đổi trên lĩnh vực tư tưởng trong thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta được biểu hiện rõ ở công tác tư tưởng. Việc hình thành, phát triển hệ tư tưởng XHCN, biến hệ tư tưởng XHCN thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội, cổ vũ mọi người lao động, sáng tạo vì mục tiêu lý tưởng của CNXH ngày càng được đẩy mạnh. Việc truyền bá hệ tư tưởng giai cấp công nhân trong các tầng lớp nhân dân cũng ngày càng nhân rộng. Công tác giáo dục lý luận chính trị tư tưởng không ngừng được nâng cao; thông tin tuyên truyền, đọc báo, nghe đài, các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao ngày càng được chú trọng hơn; cán bộ các cấp được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng, hiệu quả. Cấp ủy đảng các cấp luôn nêu cao trách nhiệm của người đứng đầu trong nghiên cứu, triển khai và tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Trong cơ chế thị trường, một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng năng động, tích cực, thích ứng và phát huy tài năng, trí tuệ vươn lên, vượt qua đói nghèo, chiến thắng lạc hậu. Nhiều tấm gương tiêu biểu có mặt trên khắp mọi miền của Tổ quốc, ở mọi cấp, mọi ngành đã có sức động viên lôi cuốn đông đảo quần chúng vươn lên. Sự ổn định về tư tưởng, chính trị ở cơ sở ngày càng vững chắc.

    Về lĩnh vực văn hóa, việc xây dựng văn hóa vô sản, nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại ngày càng được đẩy mạnh. Chính phủ đã ban hành mười chiến lược lớn, trong đó có Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020. Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" được cấp ủy, chính quyền quan tâm đã và đang có sức lan tỏa trong cộng đồng. Xây dựng đạo đức, lối sống con người Việt Nam được xác định là nhiệm vụ đầu tiên, hàng đầu cùng với việc tạo dựng môi trường văn hóa. Những nét mới trong chuẩn mực văn hóa và trong nhân cách con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa từng bước được hình thành, kế thừa những đức tính tốt đẹp truyền thống của dân tộc: cần cù, yêu nước, gắn bó sâu nặng với quê hương, cộng đồng, ham hiểu biết, vừa có trình độ học vấn, năng động, sáng tạo trong cơ chế thị trường. Nhận thức về văn hóa cũng đã có nhiều thay đổi tích cực; mức hưởng thụ các sản phẩm văn hóa được nâng lên đáng kể; các thiết chế văn hóa được đầu tư, góp phần làm giảm sự cách biệt về văn hóa đối với từng vùng miền, từng dân tộc; giữa nông thôn, miền núi và thành thị, huy động được quần chúng nhân dân hưởng ứng và tham gia vào các chiến lược phát triển văn hóa của Đảng và Chính phủ...

    Một thành tựu phải kể đến chính là việc triển khai thực hiện công tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa. Nhờ đó, văn nghệ sĩ có điều kiện in ấn, xuất bản, triển lãm, biểu diễn tác phẩm văn học nghệ thuật ngoài nguồn kinh phí hỗ trợ của Nhà nước, với sự tham gia của các thành phần kinh tế, trong đó có vai trò tích cực của tư nhân. Hoạt động nghiên cứu, lý luận phê bình văn hóa nghệ thuật được đẩy mạnh, tham gia hiệu quả vào việc đẩy lùi các khuynh hướng phủ nhận thành tựu của văn nghệ cách mạng, kháng chiến, kiên trì bảo vệ và phát triển đường lối văn hóa nghệ thuật Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh...

    2.4. Trên lĩnh vực xã hội

    Hiện nay, ở Việt Nam, đặc điểm này được biểu hiện như sau:

    Trong suốt thời kỳ quá độ chúng ta đã đạt được những chuyển biến tốt về mặt xã hội. Nhìn chung, đời sống tinh thần, vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện một bước rõ rệt. Những năm gần đây có hàng triệu lao động được giải quyết việc làm. Cùng với đời sống vật chất thì đời sống tinh thần cũng được nâng lên đáng kể. Trình độ dân trí được nâng lên đáng kể, đời sống văn hóa của nhân dân được cải thiện. Hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng trở nên rộng khắp. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, công tác kế hoạch hóa gia đình và nhiều hoạt động xã hội khác đều có mặt phát triển và tiến bộ.

    Hệ thống y tế, giáo dục cũng phát triển. Mạng lưới y tế phát triển rộng khắp, luôn kịp thời chăm lo cho sức khỏe của nhân dân. Giáo dục ở Việt Nam luôn được coi là quốc sách hàng đầu. Đảng và Nhà nước luôn có những chính sách hỗ trợ và đầu tư cho phát triển giáo dục như đầu tư cơ sở hạ tầng, trợ cấp cho học sinh, sinh viên...

    Tính năng động, sáng tạo của người dân được phát huy, người lao động ngày càng chủ động hơn trong việc tìm kiếm việc làm, tăng thu nhập, tham gia ý kiến đóng góp vào sinh hoạt chung của cộng đồng, xã hội...

    Tuy nhiên, như Lê nin đã từng nói, thời kỳ quá độ “tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội là sự đan xen giữa cái mới và cái cũ”. Chính vì vậy, bên cạnh những “cái mới” đang ngày càng phát triển, thì những “cái cũ” vẫn luôn tồn tại. Nó được biểu hiện bằng các hạn chế, những khuyết điểm cần được sửa đổi. Ví dụ như chất lượng giáo dục, y tế ở nhiều nơi vẫn còn rất thấp. Các hủ tục lạc hậu vẫn còn kéo dài ở vùng dân tộc thiểu số, nông thôn. Trẻ em không được đến trường, người nghèo không đủ tiền chữa bệnh, trật tự xã hội không an toàn, các tệ nạn xã hội vẫn một ngày phát triển.. Từ những hạn chế này đặt ra các yêu cầu cấp thiết cho Đảng và Nhà nước trong việc đưa ra các chính sách, biện pháp để xã hội ngày một phát triển hơn nữa.

    KẾT LUẬN

    Lý luận về hình thái kinh tế- xã hội của C.Mác cho thấy sự biến đổi của các xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên. Vận dụng lý luận đó vào phân tích xã hội tư bản, tìm ra các quy luật vận động của nó, C.Mác và Ph. Ăngghen đều cho rằng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa có tính chất lịch sử và xã hội tư bản tất yếu bị thay thế bằng xã hội mới- xã hội cộng sản chủ nghĩa.

    Sau khi nghiên cứu, nhóm đã hiểu rõ hơn về quan điểm, bản chất của quá trình tiến lên CNXH mà Mác-Lênin đã trình bày, đồng thời cũng hiểu sâu sắc và hoàn toàn tin tưởng vào con đường tiến lên CNXH ở Việt Nam. Từ nhận thức một cách đúng đắn, triệt để và nhất quán về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam sẽ giúp cho mỗi chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về những thuận lợi, khó khăn; những thời cơ, vận hội; nguy cơ và thách thức đan xen nhau để từ đó với quyết tâm chính trị cao chúng ta phải phấn đấu vượt qua, tránh được căn bệnh chủ quan, nóng vội, duy ý chí; trong nhận thức phải xuất phát từ thực tế khách quan tôn trọng và hành động theo quy luật.

    TÀI LIỆU THAM KHẢO

    1. Giáo trình Chủ nghĩa Xã hội khoa học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2019

    2. Đào Văn Mạc (2021), “Đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ an ninh tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí công sản, truy cập lần cuối ngày 24/04/2021,  https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/821517/dau-tranh-chong-cac-quan-diem-sai-trai%2C-thu-dich%2C-bao-ve-an-ninh-tu-tuong-cua-dang-trong-giai-doan-hien-nay.aspx

    3. TS. Lưu Duy Toàn (2018), “Phương thức, thủ đoạn mới của “diễn biến hòa bình”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, truy cập lần cuối ngày 24/04/2021, http://tapchiqptd.vn/vi/phong-chong-dbhb-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa/phuong-thuc-thu-doan-moi-cua-dien-bien-hoa-binh/13045.html

    Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU

    Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

    Continue Reading

     

    MỞ ĐẦU

    Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế được nhiều quốc gia lựa chọn phát triển, trong đó có Việt Nam. Sau hơn 30 năm đổi mới, mô hình kinh tế thị trường của Việt Nam từng bước phát triển, tư duy và nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa liên tục được đổi mới. Trong bối cảnh ấy, các quy luật kinh tế chính trị đóng vai trò định hướng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của xã hội, đặc biệt là quy luật giá trị. Đây chính là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa, quy định bản chất của sản xuất hàng hóa, là cơ sở của tất cả các quy luật khác của sản xuất hàng hóa. Mọi hoạt động của chủ thể kinh tế trong sản xuất và lưu thông hàng hóa đều chịu sự tác động của quy luật giá trị. 

    Nhận thức được tầm quan trọng của quy luật giá trị, sau đây em xin được trình bày về vấn đề “Quy luật giá trị - Liên hệ với thực tiễn phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay” để có một cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề này.

    NỘI DUNG

    I. Cơ sở lý luận về quy luật giá trị

    1. Khái niệm

    Trong đời sống hàng ngày, đằng sau các hiện tượng muôn hình muôn vẻ, con người dần nhận thức được trật tự và mối quan hệ có tính lặp lại của các hiện tượng, từ đó hình thành nên khái niệm “quy luật”. Quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi sự vật, hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.

    Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa vì nó quy định bản chất của sản xuất hàng hóa, là cơ sở của tất cả các quy luật khác của sản xuất hàng hóa.

    2. Nội dung và yêu cầu của quy luật giá trị

    Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị. 

    Yêu cầu chung của quy luật giá trị là việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với một trình độ trang thiết bị trung bình, trình độ thành thạo trung bình, và cường độ lao động trung bình trong xã hội đó. Cụ thể:

    Trong quá trình sản xuất hàng hóa: 

    Mọi quá trình sản xuất có mức thời gian hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hoặc bằng mức thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết thì tồn tại và phát triển. Mọi quá trình sản xuất có mức thời gian hao phí lao động cá biệt lớn hơn mức thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết thì không tồn tại. Nói cách khác, mức thời gian hao phí lao động cá biệt càng thấp thì người sản xuất càng có khả năng phát triển kinh doanh, thu được nhiều lợi nhuận. Người có mức hao phí lao động cao hơn mức hao phí lao động trung bình thì sẽ bị thua lỗ, phá sản. Người có mức hao phí lao động bằng mức hao phí trung bình thì hòa vốn. Người có mức hao phí lao động thấp hơn mức hao phí lao động trung bình của xã hội thì có tiền lời. 

     Ví dụ: Giá bán trên thị trường của một chiếc nón lá là 50.000 đồng. Nhà sản xuất nón lá A có tổng chi phí sản xuất là 60.000 đồng/chiếc. Vậy nhà sản xuất A sẽ bị thua lỗ, phá sản. Quy luật giá trị cho thấy rằng, chỉ có những nhà sản xuất có chi phí sản xuất nón lá từ 50.000 đồng/chiếc trở xuống mới có thể tồn tại.

    Trong quá trình trao đổi hàng hóa:

    Với hàng hóa cùng loại, có cùng lượng giá trị phải được bán cùng giá hay trao đổi ngang giá. Bởi lẽ để sản xuất hàng hóa đó cần có cùng một mức hao phí trung bình, vậy nó biểu hiện ra cùng một thị trường phải cùng bằng một mức giá tương ứng. Tuy nhiên, giá bán trên thị trường còn phải phụ thuộc vào chi phí vận chuyển. Ví dụ, một sản phẩm được sản xuất ra ở Hà Nội, với chi phí trung bình 5.000 đồng, bán trên thị trường ở Hà Nội với giá 5.000 đồng/sản phẩm. Giả sử phí vận chuyển từ Hà Nội về Hải Dương là 500 đồng/sản phẩm thì giá bán ở Hải Dương là 5.500 đồng/sản phẩm.

    Với hàng hóa khác loại thì tỷ lệ trao đổi giữa chúng là do tỷ lệ so sánh về thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó với nhau quyết định. Ví dụ: Để sản xuất ra 1kg rau cần 5 giờ lao động, sản xuất ra 1 chiếc xe máy cần 25.000 giờ lao động. Vậy tỷ lệ trao đổi giữa rau xanh và xe máy là 5 tấn rau bằng 1 chiếc xe máy và giá bán của 1 chiếc xe máy trên thị trường sẽ gấp 5000 lần giá bán của 1kg rau.

    Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hóa nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược lại. Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như: cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả của hàng hóa trên thị trường tách rời với giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động giá cả thị trường của hàng hóa xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng.

    3. Tác động của quy luật giá trị

    Trong sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị có ba tác động chủ yếu sau:

    a) Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa

    Trong sản xuất, quy luật giá trị điều tiết việc phân phối tư liệu sản xuất và sức lao động giữa các ngành sản xuất trên phạm vi cá biệt và phạm vi xã hội, làm cho các yếu tố sản xuất như tư liệu sản xuất, sức lao động, tiền vốn được chuyển từ ngành này sang ngành khác, làm cho quy mô ngành này mở rộng, ngành kia thu hẹp.

    Ở phạm vi cá biệt, quy luật giá trị dẫn dắt hành động của người sản xuất, để họ quyết định sản xuất cái gì, sản xuất bằng công nghệ gì, sản xuất cho ai, mục đích là thu lãi bao nhiêu. Dựa vào sự biến động của giá cả thị trường do tác động của cung cầu người ta biết hàng nào đang thiếu, đang thừa, từ đó người sản xuất sẽ mở rộng sản xuất mặt hàng thu nhiều lãi, hạn chế sản xuất những mặt hàng ế, thừa.

    Ở phạm vi xã hội, quy luật giá trị phân bổ nguồn lực xã hội vào các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Ví dụ ngành nông nghiệp, trên một cánh đồng thay vì dùng sức lao động tay chân để trồng lúa, người ta đổi sang dùng máy móc. Khi đó, từ mức cần 100 người làm giờ chỉ cần 10 người làm. Như vậy, 90 người còn lại được phân bổ sang các ngành nghề khác để phát triển các ngành khác hoặc phát triển ngành mới.

    Trong lưu thông, quy luật giá trị điều tiết lưu thông thông qua giá cả trên thị trường. Sự biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hóa thông suốt. Ví dụ, giá bán 1kg vải ở Hải Dương là 15.000 đồng/kg, giá bán 1kg vải ở Hà Nội là 50.000 đồng/kg. Khi đó, vải sẽ được chuyển từ Hải Dương lên Hà Nội để bán. 

    b) Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển

    Trong nền sản xuất hàng hoá, mỗi người sản xuất hàng hoá là một chủ thể kinh tế độc lập, tự quyết định việc sản xuất kinh doanh của mình. Cùng một loại hàng hóa, người nào sản xuất rẻ hơn, bán được nhiều hơn thì chiếm lĩnh được nhiều thị phần hơn; dần dần buộc những người khác cũng phải áp dụng các phương pháp ít tốn kém hơn, làm cho năng suất lao động tăng lên, thời gian lao động xã hội cần thiết giảm xuống. Người sản xuất nào muốn tồn tại và phát triển thì phải tìm cách nâng cao trình độ tay nghề, sử dụng thành tựu mới khoa học kỹ thuật vào sản xuất, cải tiến công tác tổ chức quản lý sản xuất để giảm hao phí lao động cá biệt của mình. Ngoài ra họ còn phải thường xuyên cải tiến chất lượng mẫu mã hàng hoá cho phù hợp với nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, cải tiến lưu thông bán hàng để tiết kiệm phí lưu thông và tiêu thụ sản phẩm nhanh. 

    Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết quả là lực lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ, từ đó làm cho kỹ thuật của toàn xã hội phát triển lên trình độ cao hơn, năng suất tăng cao hơn. Quy luật giá trị đã kích thích, buộc nhà sản xuất phải không ngừng hoàn thiện kỹ thuật sản xuất để đảm bảo sự sinh tồn của mình.

    c) Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa thành kẻ giàu người nghèo

    Trong sản xuất hàng hoá, người sản xuất nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, thì sẽ thu được nhiều lãi và trở nên giàu có, có thể mua thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh, thậm chí trở thành ông chủ. Những người giàu bỏ tiền ra đầu tư, mở công ty tập đoàn, tuyển những người khác vào làm, hình thành nên mô hình sản xuất kiểu tư bản chủ nghĩa. Ngược lại những người có trình độ năng lực yếu, quy mô sản xuất thấp, công nghệ lạc hậu hoặc gặp rủi ro dẫn đến phá sản, trở thành người nghèo. Tác động này của quy luật giá trị giúp đào thải cái yếu kém kích thích nhân tố tích cực phân hoá sản xuất thành những người giàu và nghèo tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển nền sản xuất lớn hiện đại. 

    Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Do đó đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, nhà nước cần có những biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặc biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

    II. Thực tiễn việc vận dụng quy luật giá trị ở Việt Nam trong phát triển kinh tế hiện nay

    1. Thực tiễn vận dụng quy luật giá trị trong phát triển kinh tế ở Việt Nam

    a) Đối với lĩnh vực sản xuất hàng hóa

    Trong sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị được áp dụng thực hiện với 2 vấn đề chính sau:

    Thứ nhất, việc hoạch toán kinh tế của các doanh nghiệp sản xuất

    Đối với nền kinh tế thị trường hiện nay tại Việt Nam, các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa đang cạnh tranh với nhau khá mạnh mẽ. Do đó, để có thể đảm bảo được vị trí của mình cũng như đứng vững ở các vị trí đó, vượt qua được các đối thủ khác thì doanh nghiệp cần phải thực hiện tính toán về vấn đề hiệu quả của hoạt động kinh doanh.

    Cụ thể, các hiệu quả đó được đánh giá thông qua các hình thức giá trị, giá cả của hàng hóa, lợi nhuận thu được, các khoản chi phí liên quan,... Theo đó, để đảm bảo mang lại lợi nhuận cao thì các doanh nghiệp sẽ cần phải làm sao để có thể hạ thấp được các chi phí trong hoạt động sản xuất của mình. Doanh nghiệp có thể hợp lý hóa về quy trình, tiết kiệm các chi phí không cần thiết, gia tăng về năng suất lao động hơn nữa,...

    Như vậy, để có thể đảm bảo thực hiện được các vấn đề đó, doanh nghiệp cần phải hiểu và nắm rõ về các quy luật giá trị áp dụng như thế nào trong việc hoạch toán kinh tế. Và rất nhiều doanh nghiệp hiện nay vẫn luôn thực hiện rất tốt về vấn đề này. Đặc biệt, nhà nước hiện nay đều quyết định cổ phần hóa đa số các doanh nghiệp thuộc nhà nước và chỉ giữ lại một số doanh nghiệp hoạt động trong ngành liên quan đến an ninh quốc gia.

    Do đó, các doanh nghiệp khác đều sẽ chuyển thành mô hình cổ phần, đồng thời sẽ có nhiều chủ sở hữu, nhiều cổ đông làm việc vì lợi ích chung. Chính vì vậy mà việc áp dụng đúng đắn các quy luật giá trị trong vấn đề hoạch toán kinh tế là điều hết sức cần thiết, quan trọng cho các doanh nghiệp hiện nay, nhất là các doanh nghiệp với mô hình cổ phần.

    Thứ hai, việc hình thành nên giá thành của sản phẩm sản xuất

    Nước ta trước đây hoạt động kinh tế theo cơ chế quan liêu bao cấp và toàn bộ giá cả của các sản phẩm, loại hàng hóa đều được quyết định bởi Chính phủ. Tuy nhiên, sau giai đoạn đổi mới thì toàn bộ vấn đề liên quan đến giá cả của hàng hóa lại phụ thuộc vào thị trường. Theo đó, nhà nước chủ trương cần phải vận dụng được tối đa các quy luật giá trị vào quá trình sản xuất và định giá thành của sản phẩm khi tung ra thị trường và giá cả phải do chính giá trị của các sản phẩm đó quyết định.

    Mặc dù vậy thì xét trên thực tế, giá cả của các mặt hàng trên thị trường hiện nay lại phụ thuộc và chịu tác động khá lớn bởi nhiều yếu tố liên quan khác như là vấn đề cung – cầu của con người, yếu tố cạnh tranh, sức mua của đồng tiền,... Và những vấn đề đó thì không thể nào tuân theo được ý muốn và quyết định của nhà nước được. Thông qua sự điều chỉnh này thì có thể thấy, nhà nước cũng đã và đang phần nào nhận thấy được tầm quan trọng của các quy luật giá trị trong quá trình sản xuất hàng hóa.

    b) Đối với lĩnh vực lưu thông hàng hóa

    Bên cạnh quá trình sản xuất thì vấn đề lưu thông hàng hóa cũng cần phải áp dụng theo quy luật giá trị nhất định. Như đã phân tích ở trên, nguyên tắc cho vấn đề trao đổi – lưu thông hàng hóa sẽ cần phải thực hiện theo hình thức ngang giá. Và hàng hóa theo tác động của quy luật giá trị, hàng hóa sẽ được chuyển từ những thị trường có giá cả thấp đến thị trường có giá cao hơn, từ những nơi mà có nguồn cung nhiều đến những nơi có nhu cầu nhiều,... Thông qua đó thì hàng hóa giữa các vùng miền sẽ được phân bố hợp lý, cần đối hơn.

    Hiện nay, nhà nước cũng đang vận dụng khá tốt quy luật giá trị vào vấn đề lưu thông hàng hóa. Cụ thể đó là việc định giá cả của các loại sản phẩm, hàng hóa sát so với giá trị của chúng; thông qua giá trị sản phẩm kích thích nhu cầu cải tiến kỹ thuật, công tác quản lý.

    Bên cạnh đó, nhà nước cũng không ngừng chủ động thực hiện việc tách giá cả của sản phẩm ra khỏi giá trị của chúng ở những thời kỳ khác nhau. Từ sự chênh lệch giữa 2 yếu tố đó mà thực hiện điều tiết một phần hay toàn bộ quá trình sản xuất – lưu thông hàng hóa, đồng thời điều chỉnh về mối quan hệ cung – cầu hay hoạt động phân phối hàng hóa giữa các vùng miền.

    Như vậy, giá cả được xem là một công cụ kinh tế vô cùng quan trọng, cần thiết đối với việc lên các kế hoạch về vấn đề tiêu dùng xã hội hiện nay mà các doanh nghiệp và nhà nước cần phải hết sức quan tâm, chú ý.

    2. Thành tựu của việc vận dụng quy luật giá trị trong phát triển kinh tế ở Việt Nam

    Sau hơn 30 năm thực hiện đổi mới nền kinh tế, chủ yếu nhờ các biện pháp giải phóng sức lao động trong nước và mở cửa nền kinh tế, tận dụng nguồn lực bên ngoài, nền kinh tế Việt Nam đã có sự biến đổi rõ rệt.

    Trong 10 năm gần đây (2010 – 2019), tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được duy trì ở mức hợp lý. Tốc độ tăng GDP bình quân 10 năm đạt 6,29%/năm, có 6/10 năm đạt chỉ tiêu Quốc hội đề ra. Quy mô và tiềm lực của nền kinh tế liên tục tăng lên. GDP năm 2019 đạt 262 tỷ USD gấp 2,26 lần GDP năm 2010 (116 tỷ USD). Giá trị gia tăng ngành công nghiệp, xây dựng tăng bình quân 7,33%/năm, tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong cơ cấu công nghiệp tăng. Khu vực nông nghiệp cơ bản phát triển ổn định, giá trị gia tăng bình quân 2,81%/năm. Năng suất, sản lượng và hàm lượng công nghệ trong sản phẩm nông nghiệp và nuôi trồng thủy hải sản tăng đáng kể; an ninh lương thực quốc gia được bảo đảm; một số sản phẩm xuất khẩu chiếm được vị trí cao trên thị trường quốc tế. Tổng doanh thu dịch vụ tăng bình quân 6,85%/năm. Năm 2019, Việt Nam đón trên 18 triệu lượt khách quốc tế (tăng gần 4 lần so với 5 triệu khách năm 2010).

    Thu nhập bình quân đầu người năm 2019 khoảng trên 3000 USD, gấp gần 3 lần thu nhập bình quân đầu người năm 2010 (1160 USD). Mức sống của người dân được nâng cao, tỉ lệ hộ nghèo giảm, chỉ số phát triển con người tiếp tục được nâng lên. Tăng trưởng kinh tế góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ công, bảo đảm an sinh xã hội, góp phần quan trọng trong quá trình xóa đói, giảm nghèo. Kết quả tăng trưởng dẫn đến trình độ dân trí tăng, đặc biệt nỗ lực thoát nghèo của chính người nghèo đã khiến một bộ phận người dân Việt Nam thoát nghèo và có cuộc sống khá giả hơn.

    Bước sang năm 2020, khi cả thế giới điêu đứng vì dịch Covid-19, Việt Nam cũng không ngoại lệ. Tăng trưởng GDP quý I/2020 ước đạt 3,82% so với cùng kỳ năm trước – mức tăng thấp nhất từ năm 2011. Tuy nhiên, xét ở tầm khu vực và so với nhiều nền kinh tế khác, kết quả này đạt mức khá. Việt Nam là một trong số ít các quốc gia đạt tăng trưởng dương quý I/2020.

    3. Hạn chế của việc vận dụng quy luật giá trị trong phát triển kinh tế ở Việt Nam

    Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế vẫn còn dựa nhiều vào vốn, lao động trình độ thấp, chưa dựa nhiều vào tri thức, khoa học - công nghệ và lao động có kỹ năng.

    Đóng góp của năng suất yếu tố tổng hợp - TFP (đổi mới công nghệ, hợp lý hóa quá trình sản xuất, nâng cao hiệu quả quản lý, kỹ năng của người lao động...) ở Việt Nam vẫn thấp hơn so với một số nước khác trong cùng giai đoạn tăng trưởng nhanh như: Ấn Độ (49%), Thái Lan và Philippines (70%), Malaysia (64%).

    Thứ hai, tăng trưởng kinh tế không bền vững, còn phụ thuộc nhiều vào khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).

    Ví dụ năm 2017, trong hơn 220 tỷ USD GDP thì có tới hơn 60 tỷ USD do Samsung “đóng góp” từ điện thoại di động và các thiết bị điện tử. 

    Thứ ba, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, năng suất lao động chậm được cải thiện, thấp hơn nhiều so với một số nước trong khu vực.

    Hiệu quả sử dụng vốn của Việt Nam giai đoạn 2010 - 2019 đã tăng lên so với giai đoạn trước, tuy nhiên tăng rất ít và so với một số nước ở cùng thời kỳ tăng trưởng nhanh, hiệu quả sử dụng vốn của Việt Nam còn thấp. Nguyên nhân hiệu quả sử dụng vốn của Việt Nam thấp chủ yếu là do phân bổ vốn và quản lý quá trình đầu tư vốn chưa hợp lý, còn nhiều bất cập.

    Năng suất lao động của Việt Nam giai đoạn 2010 – 2019 tuy cũng tăng lên so với giai đoạn trước, song so với nhiều nước trong khu vực còn thấp hơn rất nhiều. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, năm 2016, năng suất lao động của Việt Nam đạt 9.894 USD, chỉ bằng 7% Singapore; 17,6% Malaysia; 36,5% Thái Lan; 42,3% Indonesia; 56,7% Philippines.

    Thứ tư, khả năng duy trì tăng trưởng kinh tế trong tương lai còn thấp.

    Máy móc, thiết bị và quy trình công nghệ của Việt Nam hiện rất lạc hậu. Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đang sử dụng công nghệ tụt hậu 2-3 thế hệ so với mức trung bình của thế giới. Hơn nữa, chất lượng lao động của Việt Nam thấp. Đến cuối năm 2019, chỉ có khoảng 23,1% lao động cả nước đã qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ. Bên cạnh đó, ý thức chấp hành kỷ luật lao động không cao; lao động thiếu các kỹ năng mềm, trình độ ngoại ngữ hạn chế. Đây là rào cản lớn cho việc cải thiện năng suất lao động.

    III. Một số giải pháp nhằm vận dụng quy luật giá trị ở nước ta trong thời gian tới

    Thứ nhất, xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia.

    Để nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, không rơi vào bẫy thu nhập trung bình, Chính phủ cần xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia: Tăng cường quản trị công, nguồn nhân lực, hệ thống đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp, nâng cao đóng góp của các trường đại học và cơ sở nghiên cứu nhà nước.

    Thứ hai, nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực.

    Để thực hiện điều này cần: Đổi mới hệ thống giáo dục, đặc biệt là giáo dục về công nghệ, khoa học; kết hợp nhà trường và doanh nghiệp; đào tạo, phát triển nguồn nhân lực gắn với phát triển kinh tế, xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế; coi trọng việc phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng hợp lý nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài…

    Thứ ba, chú trọng phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong nước.

    Cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện khung pháp lý để thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển; cần quan tâm, tạo điều kiện về đất đai, vốn, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi cho phát triển khu vực kinh tế tư nhân; đẩy mạnh việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng cho phát triển kinh tế tư nhân.

    Thứ tư, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

    Chính phủ cần hoàn thiện pháp luật về kinh tế, đặc biệt là pháp luật liên quan đến sở hữu, doanh nghiệp, thị trường, lao động, khoa học và công nghệ, đầu tư; hoàn thiện các chính sách về kinh tế như chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách thương mại, chính sách việc làm...; hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, từ cấp Chính phủ đến ủy ban nhân dân các cấp.

    Thứ năm, cần tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam.

    Khu vực doanh nghiệp cần xây dựng chương trình cắt giảm chi phí sản xuất trong từng công đoạn sản xuất với từng sản phẩm. Nhà nước cần thực hiện chính sách hỗ trợ có điều kiện trong một khoảng thời gian nhất định để dần dần tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm; mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu bằng cách mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới, hỗ trợ xúc tiến thương mại ở các thị trường giàu tiềm năng.

    KẾT LUẬN

    Quy luật giá trị là một quy luật kinh tế quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nền kinh tế nước ta thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là quy luật căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn còn nặng tính nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật còn phụ thuộc các nước khác, tuy nhiên Đảng và nhà nước đã nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng trong việc đổi mới xã hội cũng như hiểu rõ vai trò và tác dụng của quy luật giá trị mà từ đó thực hiện các cuộc cải cách kinh tế phù hợp, đạt được nhiều thành tựu đáng kể, tuy nhiên trong thời gian qua, sự vận dụng đó nhiều khi  còn dập khuôn máy móc, cần phải có những biện pháp khắc phục những hạn chế này.

    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

    * Giáo trình:

    1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.

    2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác - Lênin, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.

    * Sách tham khảo:

    3. Đại học Kinh tế Quốc dân, Lịch sử các học thuyết Kinh tế – Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb. Thống kê, 1999

    4. Trần Hậu Thư, Vai trò quản lý của Nhà nước theo nền kinh tế thị trường nước ta, NXB chính trị Quốc gia, 1994

    5. PGS.TS Lê Quốc Lý (chủ biên), Những vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020, NXB Chính trị Quốc gia, 2013

    6. GS.TS Ngô Thắng Lợi – TS. Nguyễn Quỳnh Hoa (đồng chủ biên), Mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam – Thực trạng và định hướng đến năm 2030, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2017

    * Bài tạp chí:

    7. PGS. TS. Nguyễn Thị Thơm, Đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam sau 8 năm đổi mới mô hình tăng trưởng, Tạp chí Lý luận chính trị, số 10/2019, tr. 26 – 31

    8. TS. Nguyễn Thị Miền, Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2011-2018 và giải pháp cho giai đoạn tiếp theo, Tạp chí Lý luận chính trị, số 11/2019, tr.51 - 58

    * Website:

    9. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng

    http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNam/ThongTinTongHop/noidungvankiendaihoidang?categoryId=10000716&articleId=10038382 (truy cập ngày 11/11/2020)

    10. Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016 – 2020

    http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xii/bao-cao-danh-gia-ket-qua-thuc-hien-nhiem-vu-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-5-nam-2011-2015-va-phuong-huong-1599 (truy cập ngày 11/11/2020)

    11. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ngày ngày 10 tháng 4 năm 2006 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010

    http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/noidungchinhsachthanhtuu?categoryId=698&articleId=2939 (truy cập ngày 11/11/2020)

    12. Chí Hiếu, Thu nhập bình quân người Việt tăng lên 3.000 USD/năm theo cách tính mới

    https://thanhnien.vn/thoi-su/thu-nhap-binh-quan-nguoi-viet-tang-len-3000-usdnam-theo-cach-tinh-moi-1111830.html (truy cập ngày 11/11/2020)

    13. Nhật Quang, Năng suất lao động của Việt Nam tăng đều qua các năm

    https://vietstock.vn/2019/12/nang-suat-lao-dong-cua-viet-nam-tang-deu-qua-cac-nam-761-721835.htm#:~:text=N%C4%83ng%20su%E1%BA%A5t%20lao%20%C4%91%E1%BB%99ng%20c%E1%BB%A7a%20to%C3%A0n%20n%E1%BB%81n%20kinh%20t%E1%BA%BF%20theo,l%C3%A0m%20n%C4%83m%202019%20t%C4%83ng%20cao. (truy cập ngày 14/11/2020)

    13. Website của Tổng cục thống kê

    https://www.gso.gov.vn/ (truy cập ngày 14/11/2020)

    Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU

    Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

    Continue Reading

    ĐỀ BÀI

    Công ty P là nhà sản xuất, phân phối sản phẩm kem đánh răng “Startup” ở Việt Nam từ năm 2005 và sử dụng ổn định bao gói sản phẩm Startup với hình ảnh đôi nam nữ tươi cười để lộ hàm răng bóng cùng slogan “Cho hơi thở thơm mát tự nhiên” được viết in hoa nghiêng, màu sắc chủ đạo của bao gói sản phẩm là màu xanh lá cây, trắng bạc và xanh nước biển. Công ty P đã đăng ký nhãn hiệu Startup và được cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu năm 2009. Sản phẩm của Công ty P cũng đã được biết đến rộng rãi trên thị trường Việt Nam. Tháng 7/2014, công ty P phát hiện trên thị trường sản phẩm kem đánh răng nhãn hiệu “Staff up” của công ty T với bao gói sản phẩm gần như trùng với thiết kế bao gói sản phẩm của công ty P về hình ảnh đôi nam nữ, slogan, cách bố trí và màu sắc như mô tả trên. Công ty P cho rằng công ty T đã có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của mình. 

    Căn cứ vào các quy định của pháp luật, hãy phân tích tình huống trên và đưa ra phương án giải quyết.



    MỞ ĐẦU

    “Ideas must work through the brains and the arms of good and brave men, or they are no better than dreams” – Steve Jobs (tạm dịch: Ý tưởng phải được tạo thành qua khối óc và bàn tay của những người tốt và can đảm, không thì nó cũng chẳng hơn là những giấc mơ). Không một thế lực nào có thể khiến con người ngừng sáng tạo, tuy nhiên bản thân những nhà phát kiến ấy phải có sự trung thực đối với bản thân mình, bằng không những ý tưởng của họ, phải chăng cũng chỉ là những sự sáng tạo bánh xe nhằm theo đuổi những giấc mơ theo con đường mà chẳng ai công nhận và đánh giá cao. Đối chiếu câu nói ấy của Steve Jobs với thực tiễn cuộc sống, có rất nhiều kẻ luôn nuôi những ước mơ vượt tầm với, nên họ chọn cách sao chép lại những ý tưởng đã xuất hiện trước đó theo chiều hướng tiêu cực để rút ngắn con đường ấy. Tình huống trên đây là một ví dụ điển hình, khi công ty T đã “nhân bản” những chất liệu làm nên thương hiệu “Startup” của công ty P mà không hề có những biện pháp đảm bảo quyền lợi cho công ty P. Nhìn dưới lăng kính pháp luật, phải chăng công ty T đã có hành vi được coi là xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của công ty T? Đó chính là câu hỏi mà bài viết dưới đây sẽ tập trung hướng tới và giải quyết. Bài viết của chúng em còn nhiều thiếu sót do kiến thức chuyên ngành còn chưa sâu, mong thầy cô trong tổ bộ môn xem xét và đưa ra cho chúng em những đánh giá và lời khuyên để chúng em hoàn thiện bộ kiến thức cũng như đầu tư tốt hơn cho những bài viết trong tương lai.

    Chúng em xin chân thành cảm ơn!

    NỘI DUNG

    1. Căn cứ vào các quy định của pháp luật để phân tích tình huống trên:

    Trước hết, căn cứ theo Khoản 1 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009 và 2019) (sau đây gọi tắt là Luật SHTT 2019), thì: “Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.”

    Như vậy, quyền sở hữu trí tuệ theo quy định tại Luật SHTT 2019 bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. Do đó, để có xác định được công ty T có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với công ty P hay không, thì cần phải xác định được những quyền mà công ty P đang có thuộc nhóm quyền nào trong số các quyền sở hữu trí tuệ được nêu trên.

    Căn cứ theo Khoản 4 và Khoản 16 Điều 4 Luật SHTT 2019, thì:

    “4. Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.”

    “16. Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau.”

    Như vậy, trong tình huống trên, Công ty P là chủ sở hữu nhãn hiệu “Startup” đăng ký cho sản phẩm kem đánh răng và được cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu năm 2009. Do đó, quyền sở hữu trí tuệ của công ty P trong trường hợp này là quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu.

    Trong tình huống đã cho, công ty P cho rằng công ty T đã xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của mình, mà như đã khẳng định trên đây, chính là quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu. Để có thể khẳng định được hành vi của công ty T có xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu của công ty P hay không, ta cần căn cứ vào Điều 5 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ.

    Theo đó: “Hành vi bị xem xét bị coi là hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ quy định tại các Điều 28, 35, 126, 127, 129 và 188 của Luật Sở hữu trí tuệ, khi có đủ các căn cứ sau đây:

    1. Đối tượng bị xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.

    2. Có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét.

    3. Người thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ thể quyền sở hữu trí tuệ và không phải là người được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép theo quy định tại các Điều 25, 26, 32, 33, khoản 2 và khoản 3 Điều 125, Điều 133, Điều 134, khoản 2 Điều 137, các Điều 145, 190 và 195 của Luật Sở hữu trí tuệ.

    4. Hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam. Hành vi bị xem xét cũng bị coi là xảy ra tại Việt Nam nếu hành vi đó xảy ra trên mạng internet nhưng nhằm vào người tiêu dùng hoặc người dùng tin tại Việt Nam.”

    Căn cứ vào những điều kiện để một hành vi bị xem xét bị coi là hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trên đây, có thể khẳng định: Công ty T đã xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với Công ty P. Bởi các lẽ sau đây:

    Một là, đối tượng bị xem xét (tức sản phẩm kem đánh răng Staff up của công ty T) thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ:

    Điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu được quy định tại Điều 72 Luật SHTT 2019 là:

    “Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:

    1. Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ảnh ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc;

    2. Có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác.”

    Như vậy, nhãn hiệu kem đánh răng Startup của công ty P với “hình ảnh đôi nam nữ tươi cười để lộ hàm răng bóng cùng slogan “Cho hơi thở thơm mát tự nhiên” được viết inhoa nghiêng, màu sắc chủ đạo của bao gói sản phẩm là màu xanh lá cây, trắng bạc và xanh nước biển”; là hoàn toàn đáp ứng đủ điều kiện về bảo hộ nhãn hiệu theo quy định của Luật SHTT.

    Ngoài ra, Công ty P còn đã đăng ký nhãn hiệu Startup và được cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu năm 2009. Mà theo quy định tại Điều 93 Luật SHTT 2019 về hiệu lực của văn bằng bảo hộ, thì “Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu có hiệu lực từ ngày cấp đến hết mười năm kể từ ngày nộp đơn, …”. Do đó, tính đến thời điểm tháng 7/2014, khi công ty P phát hiện hành vi của công ty T, thì nhãn hiệu kem đánh răng Startup của công ty P vẫn đang được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.

    Hai là, có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét:

    Khoản 1 Điều 129 Luật SHTT đã quy định cụ thể về các hành vi mà bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu. Điều 11 của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP về các yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu cũng quy định các điều kiện để có thể khẳng định rằng đối tượng bị xem xét có yếu tố xâm phạm trong đó hay không, cụ thể là:

    “Để xác định một dấu hiệu bị nghi ngờ có phải là yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu hay không, cần phải so sánh dấu hiệu đó với nhãn hiệu, đồng thời phải so sánh sản phẩm, dịch vụ mang dấu hiệu đó với sản phẩm, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ. Chỉ có thể khẳng định có yếu tố xâm phạm khi đáp ứng cả hai điều kiện sau đây:

    a) Dấu hiệu bị nghi ngờ trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ; trong đó một dấu hiệu bị coi là trùng với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ nếu có cùng cấu tạo, cách trình bày (kể cả màu sắc); một dấu hiệu bị coi là tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ nếu có một số đặc điểm hoàn toàn trùng nhau hoặc tương tự đến mức không dễ dàng phân biệt với nhau về cấu tạo, cách phát âm, phiên âm đối với dấu hiệu, chữ, ý nghĩa, cách trình bày, màu sắc và gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu;

    b) Hàng hoá, dịch vụ mang dấu hiệu bị nghi ngờ trùng hoặc tương tự về bản chất hoặc có liên hệ về chức năng, công dụng và có cùng kênh tiêu thụ với hàng hoá, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ.”

    Trong tình huống này: Công ty P đã đăng ký nhãn hiệu Startup và được cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu năm 2009. Công ty T bán ra thị trường sản phẩm kem đánh răng nhãn hiệu “Staff up”. Có thể nhận thấy:

    - Cấu trúc tên gọi “Staff up”: gồm 7 ký tự, trong đó có 5 ký tự đều trùng với nhãn hiệu “Startup” đã được bảo hộ và trật tự sắp xếp các từ giống nhau.

    - Cấu trúc phát âm “Staff up” tương tự với phát âm tên gọi “Start up”

    - Nhãn hiệu của sản phẩm “Staff up” với bao gói sản phẩm gần như trùng với thiết kế bao gói sản phẩm của công ty P về hình ảnh đôi nam nữ, slogan, cách bố trí và màu sắc.

    Như vậy, có thể khẳng định, nhãn hiệu kem đánh răng của Staff up của công ty T đã bị coi là tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu kem đánh răng Startup của công ty P.

    Không chỉ vậy, hàng hoá, dịch vụ mang dấu hiệu bị nghi ngờ (tức sản phẩm kem đánh răng Staff up) còn trùng về bản chất và có cùng kênh tiêu thụ với hàng hoá, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ (tức sản phẩm kem đánh răng Startup).

    Do đó, đã có đủ căn cứ để kết luận rằng sản phẩm của công ty T đã có yếu tố xâm phạm đối với sản phẩm của công ty P.

    Ba là, người thực hiện hành vi bị xem xét (tức công ty T) không phải là chỉ thể quyền sở hữu trí tuệ và không phải người được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 125 của Luật Sở hữu trí tuệ.

    Bốn là, hành vi bị xem xét xảy ra ở Việt Nam.

    Tuy nhiên, hành vi của công ty T không chỉ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với công ty P, mà còn là hành vi cạnh tranh không lành mạnh.Khoản 6 điều 3 Luật Cạnh tranh 2018 quy định:

    “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi của doanh nghiệp trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác.”

    Điều 130 Luật SHTT 2019 lại quy định:

    “1. Các hành vi sau đây bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh:

    a) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hoá, dịch vụ;

    b) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng hoá, dịch vụ;

    2. Chỉ dẫn thương mại quy định tại khoản 1 Điều này là các dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn thương mại hàng hoá, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của hàng hoá, nhãn hàng hoá.

    3. Hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại quy định tại khoản 1 Điều này bao gồm các hành vi gắn chỉ dẫn thương mại đó lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch kinh doanh, phương tiện quảng cáo; bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu hàng hoá có gắn chỉ dẫn thương mại đó.”

    Với tình huống này, công ty T đã có hành vi: Sử dụng bao bì của hàng hóa tương tự gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất và chất lượng.

    Đây là hành vi cạnh tranh không lành mạnh bởi vì:

    Thứ nhất: Bao gói của sản phẩm mang nhãn hiệu “Startup” của công ty P không được bảo hộ về kiểu dáng công nghiệp do công ty P không tiến hành đăng ký.

    Thứ hai: Bao gói sản phẩm kem đánh răng của công ty P đã được sử dụng rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam từ năm 2005. Cùng với sự có mặt trên thị trường liên tục trongmột thời gian dài, nên có thể khẳng định kiểu dáng bao bì sản phẩm kem đánh răng của công ty P đã được biết đến và sử dụng rộng rãi.

    Thứ ba: Hai công ty là hai chủ thể sản xuất và phân phối cùng một loại sản phẩm kem đánh răng, có giá bán tương tự và cạnh tranh trực tiếp trên thị trường.

    Thứ tư: Lỗi của công ty T là lỗi cố ý sử dụng kiểu dáng bao bì tương tự để gây nhầm lẫn do công ty P đã sử dụng kiểu dáng bao gói này từ năm 2005 và phân phối rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Đến 2014 công ty T mới sản xuất và đưa ra thị trường sản phẩm kem đánh răng có bao gói tương tự. Như vậy, dù biết trên thị trường đã có sản phẩm kem đánh răng mang nhãn hiệu: “Startup” có kiểu dáng bao bì như vậy nhưng công ty T vẫn cố tình sử dụng các dấu hiệu tương tự đến mức gây nhầm lẫn cho sản phẩm trùng là kem đánh răng như đã chứng minh ở trên đông thời trình bày bao gói của sản phẩm tương tự với bao gói của công ty P trong khi công ty T có thể lựa chọn, thiết kế mẫu mã bao bì khác cho sản phẩm của công ty mình.

    2. Đề xuất phương hướng giải quyết:

    Điều 198 Luật SHTT 2019 quy định quyền tự bảo vệ, theo đó cho phép chủ thể bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được lựa chọn những biện pháp nhất định để bảo vệ quyền của mình. Cụ thể:

    “1. Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền áp dụng các biện pháp sau đây để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình:

    a) Áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ;

    b) Yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại;

    c) Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan;

    d) Khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình”

    Theo đó, trong tình huống này, công ty P có thể lựa chọn các biện pháp sau để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình:

    1. Gửi thư khuyến cáo

    Trong trường hợp này, công ty P có thể gửi thư khuyến cáo tới công ty T thông báo về quyền sở hữu công nghiệp của mình và yêu cầu công ty T chấm dứt hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của mình, gồm các nội dung như sau:

    - Thông tin về công ty P.

    - Các bằng chứng chứng minh tư cách chủ thể quyền của công ty P đối với nhãn hiệu Startup (Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu, phạm vi, thời hạn bảo hộ…)

    - Các bằng chứng cho thấy công ty T có hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu công nghiệp của công ty P.

    - Trong thư nêu rõ yêu cầu công ty T chấm dứt hành vi xâm phạm, yêu cầu thu hồi các sản phẩm có chứa dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của công ty P, yêu cầu công ty T xin lỗi, cải chính công khai trên phương tiện truyền thông đại chúng, và bồi thường thiệt hại.

    - Ấn định khoảng thời hạn hợp lý để công ty T chấm dứt hành vi xâm phạm.

    Ưu điểm của biện pháp này khi hai bên đạt được thỏa thuận là vấn đề sẽ được giải quyết nhanh chóng, ít tốn kém về thời gian và tiền bạc. Tuy nhiên, kết quả của giải pháp này phụ thuộc vào thái độ, sự tôn trọng của công ty T nên có thể kết quả sẽ không theo ý muốn của công ty P.

    2. Biện pháp hành chính

    Trong trường hợp công ty P đã gửi thư khuyến cáo yêu cầu công T chấm dứt hành vi xâm phạm nhưng công ty T vẫn cố ý không chấm dứt, công ty P có thể yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử phạt hành chính đối với công ty T về các hành vi: xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, sản xuất, buôn bán, tàng trữ để bán hàng hóa giả mạo nhãn hiệu và hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.

    Theo quy định tại Điều 15 Nghị định 99/2013/NĐ-CP, các chủ thể có thẩm quyền xử phạt hành chính đối với công ty T bao gồm: Thanh tra Khoa học và công nghệ, Quản lý thị trường, và Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh.

    Để có thể yêu cầu xử lý vi phạm hành chính đối công ty T, công ty P cần gửi đơn yêu cầu xử lý vi phạm tới cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm kèm với các tài liệu, chứng cứ, hiện vật như sau:

    - Chứng cứ chứng minh công ty P là chủ thể quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu Startup. (văn bằng bảo hộ)

    - Chứng cứ chứng minh công ty T hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh của công ty P. (vật mẫu, hiện vật, biên bản giải trình, so sánh giữa 2 sản phẩm)

    - Bản sao thông báo của công ty P gửi cho công ty T, trong đó đã ấn định một khoảng thời gian hợp lý để công ty T chấm dứt hành vi vi phạm, và chứng cứ chứng minh công ty T không chấm dứt hành vi xâm phạm.

    - Chứng cứ và hiện vật về hàng hóa giả mạo về quyền sở hữu trí tuệ (bao bì và sản phẩm kem đánh răng Staff up)

    Các hình thức xử lý hành chính được quy định tại Điều 214 Luật SHTT 2005.

    2.1. Hình phạt chính

    Phạt cảnh cáo: được áp dụng đối với vô ý vi phạm. Trong tình huống trên cần xem xét công ty T là cố ý hay vô ý.

    Phạt tiền: Căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, người có thẩm quyền quyết định mức phạt trong khung hình phạt đã quy định. Mức tiền phạt cụ thể đối với hành vi vi phạm là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó trong trường hợp không có tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ.

    2.2 Hình phạt bổ sung

    Tịch thu hàng hóa giả mạo về nhãn hiệu, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất

    Tịch thu văn bằng bảo hộ, tài liệu chứng minh quyền SHTT

    Đình chỉ có thời hạn hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực đã xảy ra vi phạm.

    Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn có thể bị áp dụng một hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả sau đây: Buộc tiêu hủy hoặc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.

    Thủ tục của biện pháp hành chính có lợi thế là đơn giản hơn so với thủ tục tố tụng dân sự, do đó tiết kiệm được thời gian và chi phí cho công ty P. Tuy nhiên, nếu chỉ áp dụng biện pháp hành chính, công ty P sẽ không nhận được tiền bồi thường thiệt hại. Tiền nộp phạt của công ty T sẽ được nộp về kho bạc nhà nước.

    3. Biện pháp dân sự

    Công ty P có thể lựa chọn phương pháp khởi kiện công ty T ra Tòa án nhân dân cấp tỉnh/thành phố về hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu của công ty mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

    Công ty P có thể gửi đơn kiện lên tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi công ty T đặt trụ sở yêu cầu tòa ra phán quyết buộc công ty T:

    - Chấm dứt hành vi xâm phạm quyền của công ty P

    - Xin lỗi, cải chính công khai

    - Bồi thường thiệt hại

    - Ngoài khoản bồi thường thiệt hại, công ty P có quyền yêu cầu tòa án buộc công ty T phải thanh toán chi phí hợp lý để thuê luật sư.

    Khi lựa chọn phương án giải quyết bằng con đường khởi kiện dân sự, công ty P cũng có nghĩa vụ cung cấp các tài liệu, chứng cứ, hiện vật như khi yêu cầu xử lý vi phạm hành chính. Đồng thời, nếu công ty P muốn yêu cầu công ty T bồi thường thiệt hại thì phải chứng minh được thiệt hại thực tế đã xảy ra và nêu căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại theo quy định của Điều 205 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, gồm:

    - Tổng thiệt hại vật chất tính bằng tiền cộng với khoản lợi nhuận công ty T thu được do thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của công ty P.

    - Giá chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu với giả định công ty T được công ty P chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu theo hợp đồng sử dụng nhãn hiệu trong phạm vi tương ứng.

    Ưu điểm: Nếu lựa chọn phương pháp này, công ty P có thể nhận được khoản tiền bồi thường từ công ty T. Việc xin lỗi, cải chính công khai có thể giúp phục hồi, nâng cao danh tiếng của công ty P. Tuy nhiên, thủ tục giải quyết khá phức tạp nên phát sinh nhiều chi phí. Thời gian xét xử có thể kéo dài nhiều năm, ảnh hưởng đến việc kinh doanh của công ty P.

    4. Biện pháp hình sự

    Biện pháp hình sự được áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm trong trường hợp hành vi đó có yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của BLHS. Trong việc bảo vệ quyền SHCN đối với nhãn hiệu, biện pháp này thường được cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng đối với các hành vi xâm phạm quyền của chủ sở hữu, gây hậu quả nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của họ, ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội.

    Theo các quy định của pháp luật, cụ thể trong BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 thì cơ chế pháp lý hình sự để bảo vệ quyền SHCN được áp dụng cho tội danh sau: Tội xâm phạm quyền Sở hữu công nghiệp theo Điều 226.

    KẾT LUẬN

    Bài viết trên đã đưa ra quan điểm của nhóm chúng em về các phương án giải quyết tình huống được đưa ra – hoàn toàn có yếu tố xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đến từ phía công ty T đối với công ty P qua hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Chính vì vậy, cần có đồng thời những biện pháp xử lý vi phạm sau đó thật nghiêm minh để đảm bảo quyền lợi cho công ty P. Tuy nhiên, thực tế giải quyết vụ việc hẳn còn tồn đọng nhiều yếu tố mâu thuẫn cũng như những sự phản kháng về mặt pháp lý tới từ phía công ty T, cho nên đây cũng sẽ là một bài toán hóc búa cho cả các nhà làm luật nghiên cứu và các nhà làm luật thực tiễn cùng bàn luận và đi tới những kết luận chính xác, đắt giá và công minh để đảm bảo lợi ích cho bên bị xâm phạm quyền lợi nói riêng và đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật nói chung.

    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

    1. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005; sửa đổi, bổ sung năm 2009 và 2019

    2. Luật Cạnh tranh năm 2018

    3. Bộ Luật Hình sự năm 2015; sửa đôi, bổ sung năm 2017.

    4. Nghị định 99/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.

    5. Nghị định 105/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ.

    Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU

    Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

    Continue Reading
    Newer
    Stories
    Older
    Stories

    About me

    REY A law practitioner

    Một người trẻ đam mê và đang trên con đường theo đuổi ngành Luật. Tốt nghiệp Cử nhân Luật tại HLU và đang học Luật sư & Thạc sĩ Luật. Read More

    Donate me

    Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha:
    BIDV

    Follow me on Facebook

    Follow me on Youtube

    Labels

    CHUYỆN ĐI LÀM (3) ĐỀ THI HẾT MÔN (14) HỌC LUẬT Ở HLU (6) HỌC LUẬT SƯ (6) LUẬT HÀNH CHÍNH (47) LÝ LUẬN CHUNG (111) TIỂU LUẬN (50)

    Cảm ơn đã ghé thăm

    recent posts

    Popular Posts

    • Phân tích đặc trưng cơ bản của nhà nước. Trên cơ sở đó, làm sáng tỏ biểu hiện một đặc trưng của nhà nước Việt Nam hiện nay.
    • 80 CÂU VẤN ĐÁP LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT (có đáp án)

    Blog Archive

    • tháng 8 2025 (1)
    • tháng 6 2024 (2)
    • tháng 3 2024 (2)
    • tháng 2 2024 (1)
    • tháng 1 2024 (8)
    • tháng 10 2023 (30)
    • tháng 9 2023 (115)
    • tháng 8 2023 (73)
    facebook youtube

    Created with by BeautyTemplates

    Back to top