Được tạo bởi Blogger.
facebook youtube

Rey & Law

    • Home
    • HỌC LUẬT Ở HLU
    • HỌC LUẬT SƯ
    • HỌC THẠC SĨ
    • CHUYỆN ĐI LÀM
    • TỰ HỌC LUẬT

     ĐỀ BÀI:

    Ngày 07/1/2019, anh N và công ty D (trụ sở quận Nam Từ Liêm, Hà Nội) ký HĐLĐ xác định thời hạn 36 tháng, công việc giám sát kỹ thuật. Ngoài ra, hai bên cũng ký thêm bản Thỏa thuận trong đó anh N cam kết “sẽ không tiết lộ bí mật công nghệ kinh doanh của doanh nghiệp trong thời gian thực hiện HĐLĐ và 1 năm sau khi HĐLĐ chấm dứt; nếu vi phạm sẽ phải bồi thường cho công ty số tiền là 100 triệu đồng”.

    Ngày 15/8/2021, do sơ xuất nên anh N đã làm nổ thiết bị khiến công nhân H đứng gần đó bị thương phải vào bệnh viện điều trị 1 tháng, sau khi ra viện giám định bị suy giảm 55% khả năng lao động. Công ty đã phải bỏ ra 50 triệu để sửa chữa máy móc bị hỏng. Sau sự việc đó, giám đốc doanh nghiệp dự kiến xử lý kỷ luật sa thải anh N và yêu cầu anh N bồi thường thiệt hại. Biết rằng, Nội quy lao động của công ty có quy định “NLĐ gây thiệt hại cho công ty từ 30 triệu đồng trở lên sẽ bị sa thải”.  

    Hỏi:

    1. Nhận xét việc ký kết HĐLĐ và các thỏa thuận khác của anh N và công ty D?

    2. Công ty có căn cứ để sa thải anh N hay không? Tư vấn cho công ty các thủ tục để việc xử lý kỷ luật đối với anh N hợp pháp?

    3. Giả sử công ty D không giải quyết quyền lợi cho anh H vì cho rằng anh N là người gây ra tai nạn cho anh H nên anh N có trách nhiệm phải bồi thường khoản tiền này. Ý kiến của anh (chị) về vấn đề này? Giải quyết quyền lợi cho anh H theo quy định của pháp luật?


    1. Nhận xét việc ký kết hợp đồng lao động và các thỏa thuận khác của anh N và công ty D?

    1.1. Việc ký kết hợp đồng lao động xác định thời hạn 36 tháng

    Trong tình huống này, anh N và công ty D ký hợp đồng lao động (HĐLĐ) vào ngày 07/01/2019 và hợp đồng được ký là HĐLĐ xác định thời hạn 36 tháng. Hợp đồng này sẽ hết hạn vào ngày 07/01/2022.

    Có thể phân tích các yếu tố của HĐLĐ trên như sau:

    * Về chủ thể giao kết hợp đồng lao động: 

    Chủ thể giao kết HĐLĐ bao gồm người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ). Trong tình huống này, NLĐ là anh N và NSDLĐ là công ty D có trụ sở tại Quận Nam Từ Liêm, Hà Nội.

    Về phía NLĐ, giả định rằng anh N là công dân Việt Nam, từ đủ 18 tuổi trở lên, có khả năng lao động, có năng lực pháp luật lao động và năng lực hành vi lao động. Khi đó, anh N có đầy đủ năng lực chủ thể để tham gia vào quan hệ pháp luật lao động và có quyền tự mình trực tiếp giao kết HĐLĐ mà không cần phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật như trường hợp NLĐ từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi.

    Về phía NSDLĐ, giả định rằng công ty D được thành lập hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam, đã đăng ký kinh doanh và được cấp giấy chứng nhận đăng ký thành lập doanh nghiệp. 

    Theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 18 BLLĐ 2019, người có quyền giao kết HĐLĐ bên phía NSDLĐ (công ty D) là: (i) Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp; (ii) Người được ủy quyền theo quy định của pháp luật. Giả định rằng, người ký kết HĐLĐ bên phía công ty D là người có thẩm quyền và có đầy đủ năng lực pháp luật lao động và năng lực hành vi lao động.

    * Về loại hợp đồng và hình thức hợp đồng: 

    Khoản 1 Điều 20 BLLĐ 2019 quy định về loại HĐLĐ như sau:

    “1. Hợp đồng lao động phải được giao kết theo một trong các loại sau đây:

    a) Hợp đồng lao động không xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng;

    b) Hợp đồng lao động xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong thời gian không quá 36 tháng kể từ thời điểm có hiệu lực của hợp đồng.”

    Loại hợp đồng trong trường hợp này là HĐLĐ xác định thời hạn 36 tháng. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 20 BLLĐ 2019.

    Hình thức hợp đồng là văn bản. Điều này cũng phù hợp với khoản 1 Điều 14 BLLĐ 2019.

    * Về nội dung HĐLĐ: 

    Hai bên thỏa thuận anh N làm việc cho công ty D với công việc là giám sát kỹ thuật. Đây không phải là công việc bị pháp luật cấm.

    Ngoài ra, giả định rằng, toàn bộ nội dung của HĐLĐ không trái quy định của pháp luật và thỏa ước lao động tập thể (nếu có).

    * Về nguyên tắc ký kết HĐLĐ:

    Giả định rằng anh N và công ty D giao kết HĐLĐ trên cơ sở sự tự do, tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực, không bên nào bị lừa dối, cưỡng ép.

    Như vậy, căn cứ vào các yếu tố của HĐLĐ và các quy định của pháp luật thì việc ký kết HĐLĐ với thời hạn 36 tháng giữa anh N và công ty D là phù hợp với quy định của pháp luật.

    1.2. Về việc ký kết thỏa thuận không tiết lộ bí mật công nghệ kinh doanh

    Khi anh N và công ty D ký kết HĐLĐ, hai bên cũng đồng thời ký thêm bản Thỏa thuận trong đó anh N cam kết “sẽ không tiết lộ bí mật công nghệ kinh doanh của doanh nghiệp trong thời gian thực hiện HĐLĐ và 1 năm sau khi HĐLĐ chấm dứt; nếu vi phạm sẽ phải bồi thường cho công ty số tiền là 100 triệu đồng”.

    Khoản 2 Điều 21 BLLĐ 2019 quy định: 

    “2. Khi người lao động làm việc có liên quan trực tiếp đến bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ theo quy định của pháp luật thì người sử dụng lao động có quyền thỏa thuận bằng văn bản với người lao động về nội dung, thời hạn bảo vệ bí mật kinh doanh, bảo vệ bí mật công nghệ, quyền lợi và việc bồi thường trong trường hợp vi phạm.”

    Theo đó, pháp luật cho phép NSDLĐ và NLĐ được ký các thỏa thuận về bảo mật thông tin khi NLĐ làm việc có liên quan trực tiếp đến bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh của doanh nghiệp. 

    Trong tình huống này, công ty D và anh N đã lựa chọn hình thức thỏa thuận bảo mật thông tin bằng việc thiết lập một văn bản cam kết độc lập. Theo đó, bản cam kết quy định rõ:

    - Thời gian cam kết bảo mật: trong thời gian thực hiện HĐLĐ và 01 năm sau khi HĐLĐ chấm dứt

    - Trách nhiệm bồi thường của người lao động: nếu vi phạm sẽ phải bồi thường cho công ty số tiền là 100 triệu đồng.

    Đây là thỏa thuận dân sự giữa NLĐ và NSDLĐ chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS 2015). Xét các điều kiện có hiệu lực đối với thỏa thuận này như sau:

    * Về chủ thể: 

    Theo giả định tại phần 1.1, anh N và công ty D là chủ thể của giao dịch dân sự, có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự phù hợp.

    * Về ý chí của các bên:

    Giả định rằng anh N và công ty D hoàn toàn tự nguyện khi ký kết Thỏa thuận bảo mật.

    * Về mục đích và nội dung của thỏa thuận:

    Mục đích của thỏa thuận là bảo vệ bí mật công nghệ kinh doanh của doanh nghiệp, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

    Về nội dung thỏa thuận, anh N có nghĩa vụ không tiết lộ bí mật công nghệ kinh doanh của doanh nghiệp trong thời gian thực hiện HĐLĐ và 01 năm sau khi HĐLĐ chấm dứt. Điều 360 BLDS 2015 quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ như sau: “Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.” Do đó, hai bên hoàn toàn có quyền thỏa thuận về mức bồi thường khi NLĐ vi phạm nghĩa vụ bảo mật thông tin.

    Như vậy, nội dung của thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật.

    * Về hình thức của thỏa thuận:

    Thỏa thuận bảo mật được lập thành văn bản, điều này phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 21 BLLĐ 2019.

    Do đó việc anh N ký thỏa thuận bảo mật với công ty D là phù hợp với quy định của pháp luật.

    2. Công ty có căn cứ để sa thải anh N hay không? Tư vấn cho công ty các thủ tục để việc xử lý kỷ luật đối với anh N hợp pháp?

    2.1. Về căn cứ sa thải anh N

    Sa thải là một trong các hình thức xử lý kỷ luật lao động được quy định tại Điều 124 BLLĐ 2019. Để có thể áp dụng hình thức kỷ luật sa thải, NSDLĐ cần có căn cứ xử lý kỷ luật lao động hợp pháp. Căn cứ để xử lý kỷ luật lao động là hành vi vi phạm kỉ luật lao động và lỗi của người vi phạm.

    * Về hành vi vi phạm kỷ luật lao động:

    Điều 117 BLLĐ 2019 quy định: “Kỷ luật lao động là những quy định về việc tuân theo thời gian, công nghệ và điều hành sản xuất, kinh doanh do người sử dụng lao động ban hành trong nội quy lao động và do pháp luật quy định.” 

    Theo đó, có thể hiểu hành vi vi phạm kỷ luật lao động là hành vi trái với quy định về việc tuân theo thời gian, công nghệ và điều hành sản xuất, kinh doanh trong nội quy lao động hoặc do pháp luật quy định. 

    Trong tình huống này, ngày 15/8/2021, do sơ suất nên anh N đã làm nổ thiết bị khiến công nhân H đứng gần đó bị thương phải vào bệnh viện điều trị 01 tháng, sau khi ra viện giám định bị suy giảm 55% khả năng lao động. Công ty đã phải bỏ ra 50 triệu để sửa chữa máy móc bị hỏng.

    Khoản 2 Điều 125 BLLĐ 2019 quy định:

    “Hình thức xử lý kỷ luật sa thải được người sử dụng lao động áp dụng trong trường hợp sau đây:

    2. Người lao động ... có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của người sử dụng lao động.”

    Như vậy, hình thức kỷ luật sa thải có thể được áp dụng với NLĐ có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản của NLĐ. BLLĐ và các văn bản hướng dẫn hiện nay không có quy định cụ thể nào hướng dẫn thế nào là “thiệt hại nghiêm trọng”. Do đó, thiệt hại nghiêm trọng là bao nhiêu sẽ do NSDLĐ quy định trong nội quy lao động. 

    Tuy nhiên, đoạn 2 khoản 1 Điều 129 BLLĐ 2019 quy định: “Trường hợp người lao động gây thiệt hại không nghiêm trọng do sơ suất với giá trị không quá 10 tháng lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố được áp dụng tại nơi người lao động làm việc thì người lao động phải bồi thường nhiều nhất là 03 tháng tiền lương và bị khấu trừ hằng tháng vào lương theo quy định tại khoản 3 Điều 102 của Bộ luật này.”

    Như vậy, có thể hiểu rằng, BLLĐ 2019 đã gián tiếp quy định rằng thiệt hại không nghiêm trọng là giá trị không quá 10 tháng lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố được áp dụng tại nơi NLĐ làm việc.

    Công ty D, nơi anh N làm việc có trụ sở tại quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Đây là địa bàn thuộc vùng I theo quy định tại Nghị định 90/2019/NĐ-CP. Mức lương tối thiểu vùng áp dụng với NLĐ làm việc ở doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng I là 4.420.000 đồng/tháng (điểm a khoản 1 Điều 3 Nghị định 90/2019/NĐ-CP). Do đó, thiệt hại không nghiêm trọng ở địa bàn vùng I có thể hiểu là giá trị thiệt hại không quá 44.200.000 đồng.

    Mà nội quy lao động của công ty quy định: “NLĐ gây thiệt hại cho công ty từ 30 triệu đồng trở lên sẽ bị sa thải”. Quy định này của Nội quy lao động có nguy cơ sẽ bị vô hiệu.

    Tuy nhiên, anh N đã có hành vi gây thiệt hại cho công ty 50 triệu đồng, con số này vượt quá 44.200.000 đồng. Do đó, có thể kết luận, anh N đã có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản cho công ty D theo khoản 2 Điều 125 BLLĐ 2019. Như vậy, anh N có hành vi vi phạm kỷ luật lao động.

    * Về lỗi:

    Lỗi là thái độ tâm lí của một người đối với hành vi vi phạm và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra. NLĐ bị coi là có lỗi khi họ có đầy đủ các điều kiện và khả năng thực hiện nghĩa vụ được giao nhưng họ đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ được giao.

    Trong tình huống này, do sơ suất nên anh N đã làm nổ thiết bị khiến công nhân H bị thương và gây thiệt hại về tài sản do công ty. Ta thấy, anh N không có chủ đích làm thiết bị phát nổ nhưng do sự sơ suất của anh N nên thiết bị đã phát nổ. Do đó, anh N có lỗi vô ý trong trường hợp này.

    Từ những phân tích trên, có thể kết luận rằng, công ty D có căn cứ để xử lý kỷ luật sa thải đối với anh N. 

    2.2. Về thủ tục xử lý kỷ luật anh N

    Trước khi tiến hành xử lý kỷ luật đối với anh N, công ty D cần xác định xem anh N có đang thuộc một trong các trường hợp không được xử lý kỷ luật sau đây hay không:

    (1) Nghỉ ốm đau, điều dưỡng; nghỉ việc được sự đồng ý của công ty D;

    (2) Đang bị tạm giữ, tạm giam;

    (3) Đang chờ kết quả của cơ quan có thẩm quyền điều tra xác minh và kết luận đối với hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản của NSDLĐ;

    (4) Đang nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

    Nếu anh N không thuộc các trường hợp trên thì tiến hành xử lý kỷ luật theo trình tự sau đây.

    Bước 1: Lập biên bản về hành vi vi phạm của anh N

    Trước hết, theo điểm a khoản 1 Điều 122 BLLĐ 2019, khi xử lý kỷ luật, “Người sử dụng lao động phải chứng minh được lỗi của người lao động”. Việc chứng minh lỗi của NLĐ, cụ thể là anh N trong tình huống đã cho có thể được thực hiện thông qua việc công ty D lập biên bản vi phạm. 

    Khoản 1 Điều 70 Nghị định 145/2020/NĐ-CP quy định:  “Khi phát hiện người lao động có hành vi vi phạm kỷ luật lao động tại thời điểm xảy ra hành vi vi phạm, người sử dụng lao động tiến hành lập biên bản vi phạm và thông báo đến tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở mà người lao động là thành viên, người đại diện theo pháp luật của người lao động chưa đủ 15 tuổi. Trường hợp người sử dụng lao động phát hiện hành vi vi phạm kỷ luật lao động sau thời điểm hành vi vi phạm đã xảy ra thì thực hiện thu thập chứng cứ chứng minh lỗi của người lao động.” 

    Như vậy, có thể chia làm 2 trường hợp để công ty D lập biên bản vi phạm đối với anh N:

    Trường hợp 1: Công ty lập tức lập biên bản vi phạm tại thời điểm anh  N thực hiện hành vi vào ngày 15/8/2021. 

    Trường hợp 2: Nếu công ty phát hiện sau thời điểm hành vi vi phạm xảy ra, công ty cần thu thập chứng cứ chứng minh lỗi của anh N. Một số hồ sơ có thể được xem là chứng cứ như: CCTV ghi lại cảnh anh N có hành vi vi phạm; lời khai của anh N; lời khai của nhân chứng có mặt tại hiện trường; Giấy giám định suy giảm khả năng lao động của công nhân H và lời khai của H; Biên bản về việc máy móc thiết bị hỏng do sự cố nêu trên;...

    Sau khi lập biên bản vi phạm, công ty D phải thông báo đến tổ chức đại diện NLĐ tại cơ sở công ty.

    Bước 2: Thông báo tổ chức phiên họp xử lý kỷ luật lao động

    Về thời hiệu xử lý kỷ luật sa thải, khoản 1 Điều 123 BLLĐ 2019 quy định: “Thời hiệu xử lý kỷ luật lao động là 06 tháng kể từ ngày xảy ra hành vi vi phạm; trường hợp hành vi vi phạm liên quan trực tiếp đến tài chính, tài sản, tiết lộ bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh của người sử dụng lao động thì thời hiệu xử lý kỷ luật lao động là 12 tháng.” 

    Như vậy, đối với hành vi của anh N, thời hiệu xử lý kỷ luật là 12 tháng tính từ ngày 15/8/2021 (ngày xảy ra vi phạm).

    Trong thời hiệu xử lý kỷ luật lao động nêu trên, công ty D phải tiến hành họp xử lý kỷ luật lao động. Theo quy định tại khoản 2 Điều 70 Nghị định 145/2020/NĐ-CP, trước khi tiến hành họp xử lý kỷ luật, công ty D phải thông báo tổ chức phiên họp tới các đối tượng liên quan như sau: 

    Ít nhất 05 ngày làm việc trước ngày tiến hành họp xử lý kỷ luật lao động, công ty D phải thông báo về nội dung, thời gian, địa điểm tiến hành cuộc họp, họ tên người bị xử lý kỷ luật, hành vi vi phạm bị xử lý kỷ luật đến các thành phần phải tham dự cuộc họp bao gồm:

    - Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở mà anh N là thành viên;

    - Anh N.

    Khi nhận được thông báo của công ty D, các thành phần phải tham dự họp nêu trên phải xác nhận tham dự cuộc họp với công ty D. Trường hợp một trong các thành phần trên không thể tham dự theo thời gian, địa điểm đã thông báo thì công ty D và anh N thỏa thuận việc thay đổi thời gian, địa điểm họp.

    Trường hợp một trong các thành phần phải tham dự nêu trên không xác nhận tham dự hoặc vắng mặt thì công ty D vẫn tiến hành họp xử lý kỷ luật lao động theo thời gian, địa điểm đã thông báo.

    Bước 3: Tiến hành họp xử lý kỷ luật lao động

    Cuộc họp tiến hành xử lý kỷ luật lao động phải được tiến hành theo thời gian, địa điểm đã thông báo hoặc thời gian, địa điểm các bên đã thỏa thuận.

    Cuộc họp chỉ được tiến hành khi có đầy đủ thành phần được thông báo tham gia hoặc có một trong các thành phần phải tham dự không xác nhận tham dự hoặc vắng mặt.

    Trong cuộc họp, anh N có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc tổ chức đại diện người lao động bào chữa.

    Nội dung cuộc họp phải được lập thành biên bản, thông qua trước khi kết thúc cuộc họp và có chữ ký của người tham dự cuộc họp. Trường hợp có người không ký vào biên bản thì người ghi biên bản nêu rõ họ tên, lý do không ký (nếu có) vào nội dung biên bản.

    Bước 4: Ban hành quyết định xử lý kỷ luật sa thải đối với anh N

    Trong thời hiệu xử lý kỷ luật, căn cứ Nội quy lao động và Điều lệ công ty, người có thẩm quyền ký quyết định sa thải anh N và gửi thông báo về quyết định này tới các thành phần tham dự buổi họp nêu trên.

    Bước 5: Giải quyết các vấn đề sau khi sa thải anh N

    Công ty D và anh N thanh toán đầy đủ các khoản tiền có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên trong thời hạn 14 ngày kể từ ngày chấm dứt HĐLĐ.

    Công ty D có trách nhiệm:

    - Hoàn thành thủ tục xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và trả lại cùng với bản chính giấy tờ khác nếu công ty D đã giữ của anh N;

    - Cung cấp bản sao các tài liệu liên quan đến quá trình làm việc anh N nếu anh N có yêu cầu. Chi phí sao, gửi tài liệu do công ty D trả.

    3. Giả sử công ty D không giải quyết quyền lợi cho anh H vì cho rằng anh N là người gây ra tai nạn cho anh H nên anh N có trách nhiệm phải bồi thường khoản tiền này. Ý kiến của anh (chị) về vấn đề này? Giải quyết quyền lợi cho anh H theo quy định của pháp luật?

    3.1. Về vấn đề “Công ty D cho rằng anh N là người gây ra tai nạn cho anh H nên anh N có trách nhiệm phải bồi thường khoản tiền này.”

    Khoản 8 Điều 3 Luật An toàn Vệ sinh lao động 2015 (Luật ATVSLĐ 2015) quy định: “Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động.”

    Do sơ suất nên anh N đã làm nổ thiết bị khiến công nhân H bị thương phải vào bệnh viện điều trị 01 tháng, sau khi ra viện giám định bị suy giảm 55% khả năng lao động. Trong trường hợp này, anh N đã bị tai nạn lao động do tai nạn xảy ra trong quá trình lao động.

    Điều 38, 39 Luật ATVSLĐ 2015 đã quy định rõ ràng trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị tai nạn lao động, trong đó có trách nhiệm thanh toán chi phí y tế, trả lương, bồi thường, trợ cấp cho NLĐ bị tai nạn lao động. Do đó, tuy anh N là người gây ra tai nạn lao động cho anh H nhưng công ty D vẫn có trách nhiệm giải quyết quyền lợi cho anh H theo quy định của pháp luật.

    Sau khi bồi thường cho anh H, công ty D có quyền yêu cầu anh N bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

    3.2. Về việc giải quyết quyền lợi cho anh H theo quy định của pháp luật

    Trước hết, anh H được hưởng đầy đủ những quyền lợi theo Điều 38 Luật ATVSLĐ 2015 về trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ bị tai nạn lao động. 

    Công ty D - với tư cách là NSDLĐ - sẽ có trách nhiệm đảm bảo những quyền lợi này của anh H. Cụ thể như sau: 

    (1) Anh H được Công ty D tạm ứng chi phí sơ cứu, cấp cứu và điều trị đối với tai nạn lao động của mình (theo Khoản 1 Điều 38) 

    (2) Anh H được Công ty D thanh toán chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định như sau: Thanh toán phần chi phí đồng chi trả và những chi phí không nằm trong danh mục do bảo hiểm y tế chi trả đối với NLĐ tham gia bảo hiểm y tế (theo Khoản 2 Điều 38). 

    (3) Anh H được Công ty D trả đủ tiền lương trong thời gian phải nghỉ việc để điều trị, phục hồi chức năng lao động (theo Khoản 3 Điều 38). 

    (4) Anh H được Công ty D bồi thường do bị tai nạn lao động mà không hoàn toàn do lỗi của chính mình gây ra với mức như sau: “Ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương nếu bị suy giảm từ 5 % đến 10% khả năng lao động; sau đó cứ tăng 1% được cộng thêm 0,4 tháng tiền lương nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 11% đến 80%” (theo Khoản 4 Điều 38). Như vậy, với mức suy giảm 55% khả năng lao động, thì anh H sẽ được bồi thường ít nhất bằng 1,5 + (0,4*(55-10)) = 19,5 tháng lương. 

    (5) Anh H được sắp xếp công việc phù hợp với sức khỏe theo kết luận của Hội đồng giám định y khoa đối với  mình sau khi điều trị, phục hồi chức năng nếu còn tiếp tục làm việc;

    Theo quy định tại Khoản 7 Điều 38 Luật ATVSLĐ 2015, anh H sẽ được hưởng những khoản bồi thường trên từ phía công ty D “trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày có kết luận của Hội đồng giám định y khoa về mức suy giảm khả năng lao động.”

    Trường hợp công ty D đã mua bảo hiểm tai nạn cho anh H tại các đơn vị kinh doanh dịch vụ bảo hiểm thì anh H được hưởng các khoản chi trả bồi thường theo hợp đồng đã ký với đơn vị kinh doanh dịch vụ bảo hiểm. Nếu số tiền mà đơn vị kinh doanh dịch vụ bảo hiểm trả cho anh H thấp hơn mức quy định tại mục (4) thì công ty D phải trả phần còn thiếu để tổng số tiền anh H nhận được ít nhất bằng mức bồi thường được quy định tại mục (4).

    Trong trường hợp anh H thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, anh H còn được hưởng những quyền lợi từ chế độ đối với người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định của Luật ATVSLĐ 2015 và Luật Bảo hiểm xã hội 2014. 

    Anh H đáp ứng đầy đủ điều kiện được hưởng chế độ tai nạn lao động, theo quy định tại Điều 45 Luật ATVSLĐ 2015. Cụ thể như sau: 

    “1. Bị tai nạn thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Tại nơi làm việc và trong giờ làm việc, kể cả khi đang thực hiện các nhu cầu sinh hoạt cần thiết tại nơi làm việc hoặc trong giờ làm việc mà Bộ luật lao động và nội quy của cơ sở sản xuất, kinh doanh cho phép, bao gồm nghỉ giải lao, ăn giữa ca, ăn bồi dưỡng hiện vật, làm vệ sinh kinh nguyệt, tắm rửa, cho con bú, đi vệ sinh; [...]

    2. Suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do bị tai nạn quy định tại khoản 1 Điều này;

    3. Người lao động không được hưởng chế độ do Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp chi trả nếu thuộc một trong các nguyên nhân quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này.” 

    Như vậy, với tai nạn lao động làm suy giảm 55% khả năng lao động, anh H sẽ được Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động bồi thường, hỗ trợ những quyền lợi như sau: 

    (1) Anh H được trợ cấp hằng tháng (theo Điều 49 Luật ATVSLĐ 2015):

    Điểm a Khoản 2 Điều 49 Luật ATVSLĐ 2019 quy định về mức trợ cấp hàng tháng như sau: “Suy giảm 31% hưởng 30% mức lương cơ sở, sau đó cứ suy giảm thêm 01% thì hưởng thêm 02% mức lương cơ sở”. Như vậy, trong trường hợp này, anh H sẽ được hưởng mức trợ cấp hàng tháng bằng 78% mức lương cơ sở. 

    Ngoài ra, tùy theo số năm đã đóng BHXH mà anh H còn được hưởng thêm khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, theo đó “từ một năm trở xuống được tính bằng 0,5%, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng vào quỹ được tính thêm 0,3% mức tiền lương đóng vào quỹ của tháng liền kề trước tháng bị tai nạn lao động; trường hợp bị tai nạn lao động ngay trong tháng đầu tham gia đóng vào quỹ hoặc có thời gian tham gia gián đoạn sau đó trở lại làm việc thì tiền lương làm căn cứ tính khoản trợ cấp này là tiền lương của chính tháng đó.” 

    (2) Anh H được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ sau khi điều trị thương tật, bệnh tật theo Điều 54 Luật ATVSLĐ 2015 “trong thời gian 30 ngày đầu trở lại làm việc mà sức khỏe chưa phục hồi”. Số ngày nghỉ dưỡng sức là tối đa 10 ngày, sẽ do công ty D và Ban chấp hành công đoàn cơ sở quyết định. Trong thời gian nghỉ, anh H được hưởng 01 ngày bằng 30% mức lương cơ sở.

    Trường hợp anh H thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc mà Công ty D không đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho anh H thì Công ty D  phải trả khoản tiền tương ứng với chế độ bảo hiểm tai nạn lao động như trên cho anh H. Việc chi trả có thể thực hiện một lần hoặc hằng tháng theo thỏa thuận của các bên, trường hợp không thống nhất thì thực hiện theo yêu cầu của anh H (theo khoản 4 Điều 39 Luật ATVSLĐ 2019).  

    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

    1. Bộ luật Lao động 2019

    2. Bộ luật Dân sự 2015

    3. Luật An toàn Vệ sinh Lao động 2015

    4. Luật Bảo hiểm xã hội 2014

    5. Nghị định 90/2019/NĐ-CP quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động

    6. Nghị định 145/2020/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động

    Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU

    Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

    Continue Reading



    1. Nhà đầu tư chỉ được thực hiện dự án đầu tư ra nước ngoài sau khi được quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài và cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài.

    Trả lời:

    Khẳng định trên là Sai.

    Cơ sở pháp lý: khoản 3 Điều 56 Luật Đầu tư 2020

    Giải thích:

    Quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài là thuật ngữ được sử dụng ở Luật Đầu tư 2014. Hiện tại, Luật Đầu tư 2020 không còn thuật ngữ này và “quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài” được thay bằng “chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài”.

    Bên cạnh đó, khoản 3 Điều 56 Luật Đầu tư 2020 quy định: “Các dự án đầu tư không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này không phải chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài.”

    Theo đó, chỉ một số các dự án đầu tư ra nước ngoài phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư. Các dự án không thuộc các trường hợp luật quy định thì không cần thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài.

    Như vậy, nhà đầu tư không cần thực hiện thủ tục quyết định chủ trương đầu tư mà chỉ thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài. Đồng thời, có những dự án, nhà đầu tư có thể thực hiện dự án đầu tư ra nước ngoài sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mà không cần được chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài.

    Vậy khẳng định đã cho là Sai.

    2. Dự án đầu tư thuộc địa bàn ưu đãi đầu tư đương nhiên được hưởng các ưu đãi đầu tư.

    Trả lời:

    Khẳng định trên là Sai.

    Cơ sở pháp lý: điểm b Khoản 5 Điều 15 Luật Đầu tư 2020; Điều 17 Luật Đầu tư 2020

    Giải thích: Điểm b khoản 2 Điều 15 Luật Đầu tư 2020 quy định:

    “2. Đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư bao gồm:

    b) Dự án đầu tư tại địa bàn ưu đãi đầu tư quy định tại khoản 2 Điều 16 của Luật này.”

    Theo quy định trên, các dự án đầu tư tại địa bàn ưu đãi đầu tư sẽ được hưởng các ưu đãi đầu tư.

    Tuy nhiên, điểm b khoản 5 Điều 15 Luật Đầu tư 2020 quy định:

    “5. Ưu đãi đầu tư quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này không áp dụng đối với các dự án đầu tư sau đây:

    b) Dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt theo quy định của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, trừ dự án sản xuất ô tô, tàu bay, du thuyền.”

    Như vậy, ưu đãi đầu tư tại địa bàn ưu đãi đầu tư sẽ không được áp dụng với các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt theo quy định của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, trừ dự án sản xuất ô tô, tàu bay, du thuyền.

    VD: dự án sản xuất thuốc lá tại địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn sẽ không được hưởng ưu đãi đầu tư.

    Đồng thời, theo quy định tại Điều 17, Luật Đầu tư 2020, nhà đầu tư cần phải thực hiện các thủ tục hưởng ưu đãi đầu tư tại các cơ quan nhà nước để được hưởng ưu đãi đầu tư.

    Từ những phân tích trên, ta thấy rằng, dự án thuộc địa bàn ưu đãi đầu tư không đương nhiên được hưởng các ưu đãi đầu tư.

    Vậy khẳng định đã cho là sai.

    3. Nhà nước không bỏ vốn trong dự án PPP.

    Trả lời:

    Khẳng định trên là Sai.

    Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 69 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư 2020

    Giải thích: Khoản 1 Điều 69 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư 2020 quy định:

    “1. Vốn nhà nước được sử dụng cho các mục đích sau đây:

    a) Hỗ trợ xây dựng công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng thuộc dự án PPP;

    b) Thanh toán cho doanh nghiệp dự án PPP cung cấp sản phẩm, dịch vụ công;

    c) Chi trả kinh phí bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ, tái định cư; hỗ trợ xây dựng công hình tạm;

    d) Chi trả phần giảm doanh thu;

    đ) Chi phí của cơ quan có thẩm quyền, cơ quan ký kết hợp đồng, đơn vị chuẩn bị dự án PPP, bên mời thầu để thực hiện các hoạt động thuộc nhiệm vụ của mình quy định tại Điều 11 của Luật này;

    e) Chi phí của Hội đồng thẩm định dự án PPP, đơn vị được giao nhiệm vụ thẩm định dự án PPP.”

    Từ quy định trên, ta thấy, trong dự án PPP, bên cạnh vốn của nhà đầu tư tư nhân, nhà nước cũng bỏ vốn vào dự án PPP. Tuy nhiên, phần vốn của nhà nước chỉ được sử dụng cho những mục đích nhất định được quy định trong luật như hỗ trợ xây dựng công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng thuộc dự án PPP, thanh toán cho doanh nghiệp dự án PPP cung cấp sản phẩm, dịch vụ công…

    Như vậy, có thể kết luận rằng, nhà nước có bỏ vốn trong dự án PPP.

    Vậy khẳng định đã cho là sai.

    Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU

    Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

    Continue Reading

     

    MỞ ĐẦU

    Những năm qua, trong sự phát triển nhanh chóng của thị trường bảo hiểm nước ta, đã xuất hiện tình trạng trục lợi bảo hiểm, gây thiệt hại về vật chất, uy tín cho nhiều doanh nghiệp bảo hiểm, xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia bảo hiểm, đồng thời ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của thị trường bảo hiểm. Để hạn chế tình trạng này, cần phải có các giải pháp đồng bộ, trong đó cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về kinh doanh bảo hiểm.

    Để có một cái nhìn tổng quan hơn về vấn đề này, sau đây em xin trình bày về đề tài: “Trục lợi, gian lận bảo hiểm là gì? Phân tích thực trạng pháp luật về trục lợi, gian lận bảo hiểm tại Việt Nam. Khuyến khích tìm hiểu pháp luật của một số nước trên giới về trục lợi, gian lận bảo hiểm, từ đó đề xuất một số ý kiến pháp lý nhằm ngăn chặn và xử lý các hành vi trục lợi, gian lận bảo hiểm tại Việt Nam.”

    NỘI DUNG

    I. Một số vấn đề chung về trục lợi, gian lận bảo hiểm

    1. Khái niệm trục lợi, gian lận bảo hiểm

    Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lời. Trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm. Khách hàng mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện, vụ việc bảo hiểm.

    Trong mọi giai đoạn của hoạt động bảo hiểm đều có thể tiềm ẩn hành vi trục lợi, gian lận bảo hiểm. Trục lợi, gian lận bảo hiểm, có thể hiểu là hành vi cố ý lừa dối của các chủ thể trong quan hệ kinh doanh bảo hiểm nhằm thu lợi bất hợp pháp.

    Cho dù là phía doanh nghiệp bảo hiểm hay bên mua bảo hiểm có hành vi trục lợi, gian lận thì khái quát lại, hiện tượng trục lợi, gian lận bảo hiểm có những đặc trưng sau: 

    (1) Có hành vi cố ý lừa dối

    Chủ thể cố ý che giấu thông tin hoặc cung cấp thông tin không trung thực nhằm làm cho phía đối tác hiểu sai thực chất của vấn đề. Quan hệ giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm là quan hệ hợp đồng, cho nên nó phải được thực hiện dựa trên nguyên tắc “thiện chí, trung thực”. Mặt khác, bảo hiểm là hoạt động được thực hiện dựa trên niềm tin lẫn nhau của các chủ thể, ở đó, bên mua nhận lời cam kết bồi thường, trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, còn doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận đảm bảo rủi ro chủ yếu thông qua việc khai báo rủi ro của khách hàng. Vì vậy, bất kỳ hành vi cố ý gian dối, không trung thực nào nhằm gây bất lợi cho bên còn lại trong quan hệ đều được xem là phi pháp. 

    (2) Có mục đích thu lợi bất chính

    Người có hành vi gian lận là nhằm mục đích trục lợi cá nhân như hưởng quyền lợi tài chính mà lẽ ra không được hưởng, hưởng quyền lợi tài chính cao hơn mức lẽ ra được hưởng. Khoản lợi bất chính đó chính là khoản bồi thường hay tiền bảo hiểm trả – số tiền mà lẽ ra người thụ hưởng hoặc người được bảo hiểm không được hưởng hoặc ở mức cao mức mà lẽ ra họ được hưởng. Ngược lại, một hành vi gian lận của đại lý hay nhân viên kinh doanh, giám định viên, người quản trị doanh nghiệp bảo hiểm có thể làm tăng thu nhập từ hoa hồng, lương thưởng do giao dịch gian lận mang lại hoặc chiếm đoạt tiền của doanh nghiệp bảo hiểm. 

    (3) Xâm phạm quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp bảo hiểm 

    Dù chủ thể của hành vi trục lợi bảo hiểm không phải là khách hàng bảo hiểm mà là người của phía doanh nghiệp bảo hiểm như người quản trị, nhân viên hay người được ủy quyền đại diện… thì doanh nghiệp bảo hiểm cũng là người phải gánh chịu chi phí tăng lên hoặc tổn hại uy tín, hình ảnh, thương hiệu. Xa hơn nữa, tình trạng trục lợi nếu phổ biến sẽ làm xấu đi môi trường của ngành bảo hiểm thương mại, làm ngăn cản sự phát triển lành mạnh của thị trường bảo hiểm.

    2. Thực trạng trục lợi, gian lận bảo hiểm ở Việt Nam

    Theo thống kê của Cục Quản lý giám sát bảo hiểm (Bộ Tài chính), từ năm 2007 đến năm 2014 tổng số vụ trục lợi bảo hiểm đã phát hiện và có bằng chứng cụ thể để từ chối chi trả bảo hiểm hơn 65.000 vụ, trung bình 8.000 vụ/năm, tổng số tiền lên tới 850 tỉ đồng, trung bình mỗi năm số tiền bị trục lợi là 110 tỉ đồng. Có những doanh nghiệp bảo hiểm lớn, số vụ trục lợi lên đến 2.000 vụ/năm. Đó là chưa tính đến những hồ sơ trục lợi chưa có bằng chứng rõ ràng để từ chối chi trả. Do không đủ thời gian và nguồn lực để điều tra, thẩm tra kỹ càng, các doanh nghiệp chỉ phát hiện được bằng chứng 50% hồ sơ trong số đó, còn 50% các doanh nghiệp buộc phải thanh toán. 

    Dưới dây là một số thủ đoạn phổ biến được các đối tượng dùng để trục lợi, gian lận bảo hiểm.

    Thứ nhất, nhóm hành vi trục lợi, gian lận bảo hiểm liên quan đến công tác thu phí, khai thác, thẩm định hồ sơ yêu cầu bảo hiểm và quản lý hoạt động bảo hiểm, gồm:

    - Khách hàng cố ý không cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin sai sự thật các thông tin liên quan đến tình trạng của đối tượng được bảo hiểm (như tình trạng sức khoẻ của bản thân...) để được tham gia bảo hiểm. Ví dụ: người được bảo hiểm đã mắc bệnh hiểm nghèo hoặc bệnh có sẵn trước khi tham gia bảo hiểm, nhưng không khai báo hoặc khai báo không trung thực. 

    - Giả mạo hồ sơ để tham gia bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Đây là trường hợp mà sau khi sự kiện bảo hiểm xảy ra và gây thiệt hại (như người đã bị tử vong, thương tật hoặc tài sản đã bị hỏng, bị tổn thất), khách hàng mới tham gia bảo hiểm. Hành vi này chủ yếu xảy ra do người tham gia bảo hiểm thông đồng với nhân viên bảo hiểm, đại lý bảo hiểm. 

    - Thông thường, các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ sẽ có giá trị hoàn lại sau 2 năm. Nếu khách hàng hủy hợp đồng trong 2 năm đầu sẽ không nhận được giá trị hoàn lại. Trong các trường hợp đề nghị hủy bỏ hợp đồng trong thời gian 2 năm đầu, đại lý làm các thủ tục giả mạo để hoàn trả cho khách hàng một khoản tiền nhỏ (thực tế khách hàng sẽ không được hưởng gì nếu theo cam kết tại hợp đồng bảo hiểm), sau đó tiếp tục giả mạo khách hàng đóng phí thêm từ 1 - 2 kỳ cho hợp đồng bảo hiểm. Khi hợp đồng có hiệu lực trên 02 năm và có giá trị hoàn lại, đại lý yêu cầu hủy hợp đồng nhằm hưởng số tiền chênh lệch. 

    Thứ hai, nhóm các hành vi trục lợi, gian lận bảo hiểm liên quan đến công tác giám định, giải quyết bồi thường hoặc chi trả quyền lợi bảo hiểm, gồm: 

    - Tự gây thiệt hại để được nhận tiền bồi thường bảo hiểm hoặc chi trả quyền lợi bảo hiểm. Ví dụ như: người được bảo hiểm tự gây thương tích để nhận tiền bồi thường; chủ xe cơ giới tự phá hỏng các bộ phận của xe hoặc hủy hoại dưới hình thức đốt xe, lao xe xuống vực (chủ yếu là xe cũ); tự đốt nhà xưởng; tự làm chìm tàu để đòi tiền bồi thường bảo hiểm... 

    - Lập hồ sơ giả, hiện trường giả, thay đổi tình tiết vụ tai nạn. Ví dụ như: người được bảo hiểm không nằm viện nhưng vẫn lập giấy tờ giả/bệnh án khống để được thanh toán quyền lợi hỗ trợ nằm viện hoặc được bệnh viện xác nhận số ngày nằm viện nhiều hơn số ngày nằm viện thực tế để được hưởng quyền lợi bảo hiểm; lái xe gây tai nạn không có Giấy phép lái xe, sau đó thay thế người khác có Giấy phép lái xe; hai bên chủ xe phối hợp làm hai bộ hồ sơ khác nhau trong cùng một vụ tai nạn hoặc chủ xe thông đồng dựng hiện trường giả vụ tai nạn; căn cứ một vụ tai nạn giao thông có thật để mua bảo hiểm, lập hồ sơ giả đòi bồi thường ở nhiều công ty bảo hiểm;.... 

    - Khai tăng hoặc khai khống mức độ tổn thất, sự kiện bảo hiểm. Ví dụ như: người được bảo hiểm thông đồng với nhân viên giám định, bác sĩ, cơ sở khám, chữa bệnh, khai tăng hoặc khai khống số tiền viện phí, tiền điều trị, tiền thuốc hoặc yêu cầu bác sĩ kê nhiều loại thuốc đắt tiền nhưng khi mua thuốc lại không mua các loại thuốc này mà sử dụng đơn thuốc này để yêu cầu bảo hiểm chi trả quyền lợi bảo hiểm nhằm mục đích trục lợi; người được bảo hiểm cấu kết với các cơ sở sửa chữa xe kê khai số lượng và mức độ tổn thất, sự kiện bảo hiểm của các bộ phận lớn hơn tổn thất thực tế. 

    II. Thực trạng pháp luật về trục lợi, gian lận bảo hiểm tại Việt Nam

    1. Quy định về các nguyên tắc trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm

    1.1. Quy định về hợp đồng bảo hiểm

    * Quy định về quyền lợi được bảo hiểm:

    Khoản 9 Điều 3 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định: “Quyền lợi có thể được bảo hiểm là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm.”

    Theo đó, người tham gia bảo hiểm phải có một số quan hệ với đối tượng được bảo hiểm và được pháp luật công nhận. Quy định này nhằm loại bỏ khả năng bảo hiểm cho tài sản của người khác, hoặc cố tình gây thiệt hại, tổn thất để thu lợi bất chính. Mối quan hệ đó thể hiện qua quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền định đoạt, quyền sử dụng tài sản được bảo hiểm.

    * Quy định về nội dung của hợp đồng bảo hiểm:

    Nội dung của hợp đồng bảo hiểm được quy định tại Điều 13 Luật Kinh doanh bảo hiểm. Quy định này là tổng thể những thỏa thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm được ghi nhận trong hợp đồng bảo hiểm. Quy định này càng chặt chẽ thì càng hạn chế được tình trạng trục lợi bảo hiểm.

    * Quy định về hình thức của hợp đồng bảo hiểm:

    Điều 14 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định: “Hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản.” Điều này nhằm đảm bảo khả năng thực hiện đúng hợp đồng của các bên, tránh trục lợi bảo hiểm cũng như tạo thuận lợi cho công tác kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

    * Quy định về hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm:

    Điều 15 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định: “Trách nhiệm bảo hiểm phát sinh khi có một trong những trường hợp sau đây:

    1. Hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết và bên mua bảo hiểm đã đóng đủ phí bảo hiểm;

    2. Hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết, trong đó có thỏa thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm về việc bên mua bảo hiểm nợ phí bảo hiểm;

    3. Có bằng chứng về việc hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết và bên mua bảo hiểm đã đóng đủ phí bảo hiểm.”

    Quy định này đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm vì chỉ khi nào hợp đồng phát sinh hiệu lực thì các bên mới có quyền và nghĩa vụ với nhau, tránh trường hợp khi đã có tổn thất, sự kiện bảo hiểm xảy ra mới mua bảo hiểm.

    1.2. Quy định về bồi thường/trả tiền bảo hiểm

    Quy định tại Điều 46 Luật Kinh doanh bảo hiểm đã thể hiện rõ nguyên tắc bồi thường trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Theo nguyên tắc này, khi tổn thất xảy ra, người được bảo hiểm phải được đưa về trạng thái tài chính ban đầu như khi tổn thất chưa xảy ra. Người được bảo hiểm không thể được trả tiền bảo hiểm nhiều hơn quyền lợi bảo hiểm mà họ có.

    1.3. Quy định về nghĩa vụ minh bạch thông tin của doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm

    Theo quy định tại khoản 1 Điều 19 Luật Kinh doanh bảo hiểm, khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm; bên mua bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến đối tượng bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm.  

    Vai trò của minh bạch thông tin là hết sức quan trọng trong việc ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm. Nếu quy định về minh bạch thông tin không cụ thể, rõ ràng, sẽ là kẽ hở để các bên tham gia hợp đồng lợi dụng để trục lợi bảo hiểm.

    2. Quy định về trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể thực hiện hành vi trục lợi bảo hiểm

    2.1. Quy định về trách nhiệm hành chính

    Trách nhiệm hành chính là hậu quả pháp lý bất lợi mà các chủ thể có hành vi trục lợi bảo hiểm phải gánh chịu khi có hành vi vi phạm. Loại trách nhiệm pháp lý này có thể áp dụng đồng thời với trách nhiệm dân sự. Trách nhiệm hành chính do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng. Hình thức trách nhiệm hành chính phổ biến là phạt tiền đối với tổ chức, cá nhân có hành vi trục lợi bảo hiểm. Mặc dù việc xử phạt vi phạm hành chính không nghiêm khắc như xử phạt hình sự nhưng áp dụng nhanh hơn và dễ dàng hơn so với thủ tục tố tụng.

    Khoản 3 Điều 14 Nghị định 98/3013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 48/2018/NĐ-CP) quy định: 

    “3. Phạt tiền từ 90.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm về gian lận trong kinh doanh bảo hiểm mà số tiền chiếm đoạt dưới 20.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại dưới 50.000.000 đồng hoặc chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, cụ thể như sau:

    a) Thông đồng với người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm để giải quyết bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm trái pháp luật;

    b) Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin để từ chối bồi thường, trả tiền bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm đã xảy ra;

    c) Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin trong hồ sơ yêu cầu bồi thường, trả tiền bảo hiểm;

    d) Tự gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe của mình để hưởng quyền lợi bảo hiểm trừ trường hợp luật quy định khác”.

    Bên cạnh những ưu điểm như: xử ý kịp thời các hành vi trục lợi, kịp thời răn đe và bình ổn thị trường; thay đổi mức phạt phù hợp với mức độ vi phạm của hành vi; quy định rõ ràng về thẩm quyền xử phạt; biện pháp xử phạt bổ sung, khắc phục hậu quả phù hợp với đặc thù của hành vi vi phạm... thì chế tài hành chính còn có những hạn chế trong việc ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm như: chưa có khái niệm về trục lợi, gian lận bảo hiểm, mức xử phạt còn thấp.

    2.2. Quy định về trách nhiệm dân sự 

    Trách nhiệm dân sự là hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể thực hiện hành vi trục lợi bảo hiểm phải gánh chịu khi có vi phạm dân sự hoặc thiệt hại xảy ra. 

    Khoản 2 Điều 19 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định:

    “Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có một trong những hành vi sau đây:

    a) Cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường;

    b) Không thực hiện các nghĩa vụ trong việc cung cấp thông tin cho doanh nghiệp bảo hiểm theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 18 của Luật này.”

    Đồng thời, điểm d khoản 1 Điều 22 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định: 

    “Hợp đồng bảo hiểm vô hiệu trong các trường hợp sau đây: 

    d) Bên mua bảo hiểm hoặc doanh nghiệp bảo hiểm có hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng bảo hiểm.” 

    Luật kinh doanh bảo hiểm không đề cập đến trục lợi bảo hiểm mà chỉ đề cập đến “nghĩa vụ cung cấp thông tin” và “quyền của doanh nghiệp bảo hiểm” từ chối chi trả, bồi thường khi bên mua bảo hiểm cung cấp thông tin không trung thực. Theo đó, việc chế tài chỉ dừng lại ở việc doanh nghiệp bảo hiểm được đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Về bản chất, việc lừa dối và cố ý cung cấp thông tin sai sự thật là tương tự nhau. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành quy định hậu quả pháp lý của hai hành vi này là khác nhau. Điều này gây ra sự mâu thuẫn lẫn nhau, gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật. Bên cạnh đó, pháp luật hiện hành mới chỉ quy định chế tài dân sự cho hành vi liên quan đến nghĩa vụ cung cấp thông tin mà chưa có quy định đối với các hành vi trục lợi, gian lận bảo hiểm khác.

    2.3. Quy định về trách nhiệm hình sự 

    Trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm thể hiện sự trừng phạt nghiêm khắc nhất của nhà nước đối với người phạm tội. Việc áp dụng trách nhiệm pháp lý này có thể áp dụng đồng thời với trách nhiệm dân sự khi hành vi này gây thiệt hại đến các chủ thể khác trong quan hệ kinh doanh bảo hiểm.

    Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã bổ sung thêm tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm tại Điều 213. Tội danh “gian lận bảo hiểm” trong Bộ luật Hình sự đã được quy định theo hướng xử lý toàn diện các đối tượng thực hiện hành vi gian lận bảo hiểm (doanh nghiệp bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm và các đối tượng khác có liên quan). Hình phạt cao nhất đối với người phạm tội này là 07 năm tù. Bên cạnh đó, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Việc bổ sung tội danh “gian lận bảo hiểm” cũng đảm bảo tương xứng với các tội danh khác và phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần ngăn ngừa hành vi gian lận bảo hiểm và lành mạnh hóa thị trường bảo hiểm Việt Nam.

    III. Một số kiến nghị nhằm ngăn ngừa tình trạng trục lợi, gian lận bảo hiểm tại Việt Nam

    1. Kinh nghiệm ngăn ngừa tình trạng trục lợi, gian lận bảo hiểm của một số quốc gia trên thế giới

    Tại Mỹ, để ngăn chặn tội phạm bảo hiểm, Hội đồng thành phố Washington DC đã ban hành đạo luật đấu tranh chống tệ nạn lừa đảo bảo hiểm, trong đó người gian lận sẽ bị phạt 50.000 USD và 15 năm tù giam, ngoài ra còn phải bồi thường khoản tiền chiếm đoạt do lừa đảo. Các công ty bảo hiểm phải xây dựng các chương trình cụ thể nhằm bảo vệ và chống lừa đảo bảo hiểm. Những công ty không thực hiện chương trình này sẽ bị phạt. 

    Tại Pháp, quá trình giám định, bồi thường, chi trả tiền bảo hiểm phải được thực hiện đúng nguyên tắc và trình tự mỗi khâu. Nếu thấy nghi ngờ một loại giấy tờ nào đó hoặc không rõ về thời gian, không gian trong các vụ tổn thất thì cần xác minh lại ngay. Tất cả các hãng bảo hiểm của Pháp đều có danh sách những người lừa đảo bảo hiểm đã bị toà án kết tội để không ký hợp đồng bảo hiểm với các đối tượng này, đồng thời nghiên cứu kỹ hồ sơ các vụ gian lận để tìm các biện pháp phòng chống

    Tại Nhật Bản, nhằm hạn chế khả năng trục lợi bảo hiểm, Nhật Bản đã quy định nếu xe tham gia nhiều hợp đồng bảo hiểm thì chỉ giải quyết theo hợp đồng đầu tiên, đồng thời thiết lập công khai số điện thoại thông báo nghi ngờ trục lợi bảo hiểm; cảnh sát giao thông có thể dùng dịch vụ thám tử tư để xác minh các thông tin liên quan đến quy trình giám định và bồi thường…

    Song song với việc hoàn thiện chế tài xử lý hành vi gian lận bảo hiểm, thì việc thành lập các cơ quan chuyên trách phòng, chống gian lận bảo hiểm là vấn đề đáng được quan tâm. Kinh nghiệm ở các nước cho thấy, các cơ quan chuyên trách giám sát, ngăn ngừa gian lận bảo hiểm đóng vai trò quan trọng trong công tác phòng, chống gian lận bảo hiểm. 

    Canada thành lập Cục phòng, chống tội phạm bảo hiểm từ  năm 1973 chuyên trách điều tra các yêu cầu gian lận bảo hiểm và cung cấp thông tin ngăn ngừa tổn thất trong bảo hiểm. Bên cạnh đó, Canada còn thành lập Liên đoàn các tổ chức chống gian lận bảo hiểm vào năm 1994, bao gồm các tổ chức chống tội phạm, các công ty bảo hiểm, cảnh sát, luật sư và khách hàng. Liên đoàn các tổ chức chống gian lận bảo hiểm đã đưa ra các hướng dẫn cụ thể cho các doanh nghiệp bảo hiểm về các biện pháp đấu tranh chống tội phạm bảo hiểm. 

    Tại Anh, năm 1988, Văn phòng chống trục lợi bảo hiểm nghiêm trọng (SFO) được thành lập. Cho đến nay, đây là cơ quan chuyên trách xử lý các hành vi gian lận nghiêm trọng hoặc phức tạp trong lĩnh vực bảo hiểm. Với việc sử dụng công nghệ tiên tiến trong việc điều tra và truy tố, tập trung lực lượng điều tra viên và luật sư trong lĩnh vực gian lận bảo hiểm có trình độ, giàu kinh nghiệm, khả năng phá án tốt, SFO đã trở thành cánh tay đắc lực cho các hãng bảo hiểm Anh trong việc truy tố tội phạm gian lận bảo hiểm.

    2. Một số kiến nghị nhằm ngăn ngừa tình trạng trục lợi, gian lận bảo hiểm tại Việt Nam

    2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về chế tài xử lý hành vi gian lận bảo hiểm

    Thứ nhất, đối với hành vi gian lận khi khai báo thông tin yêu cầu bảo hiểm ở giai đoạn tiền hợp đồng, hay gian lận trong việc thực hiện các quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm trong quá trình thực hiện yêu cầu bồi thường, cần sửa đổi các chế tài phù hợp, tránh sự chồng chéo không rõ ràng như hiện tại.

    Cụ thể, cần phân biệt rõ giữa hành vi lừa dối với hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật, đảm bảo tính nhất quán trong quy định của pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm.

    Để đảm bảo quyền và lợi ích của các bên tham gia bảo hiểm, cần quy định linh hoạt các chế tài dân sự theo mức độ vi phạm đối với nghĩa vụ cung cấp thông tin. Đối với những thông tin bên mua bảo hiểm cung cấp trước khi giao kết hợp đồng, nếu doanh nghiệp chứng minh được bên mua bảo hiểm cố ý cung cấp sai sự thật thì hợp đồng phải được tuyên vô hiệu; nếu việc cung cấp thông tin sai sự thật xảy ra sau khi giao kết hợp đồng hay trong quá trình thực hiện hợp đồng thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng và thu phí tới thời điểm đơn phương đình chỉ hợp đồng.

    Việc gian lận, trục lợi khi xảy ra sự kiện bảo hiểm vô cùng phổ biến. Tuy nhiên, Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành lại chưa quy định các chế tài dân sự đối với hành vi này. Cần bổ sung thêm quy định: khi xảy ra sự kiện được bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng bịa đặt một lý do sai dẫn đến sự kiện bảo hiểm hoặc phóng đại mức độ thiệt hại bằng cách sử dụng bằng chứng giả mạo hoặc thay đổi tài liệu bằng chứng khác, thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường hoặc thanh toán tiền bảo hiểm cho phần bịa đặt của yêu cầu bồi thường.

    Thứ hai, cần sửa đổi, bổ sung quy định về chế tài hành chính cho các hành vi trục lợi, gian lận bảo hiểm; cần đưa ra định nghĩa thế nào là hành vi trục lợi, gian lận bảo hiểm; tăng mức xử phạt vi phạm hành chính lên nhiều lần để tương xứng với mức độ thiệt hại mà xã hội và các chủ thể trong quan hệ bảo hiểm phải gánh chịu vì các đối tượng gian lận thường nhắm đến số tiền bảo hiểm lên đến hàng chục tỷ đồng, và công tác điều tra, xác minh hành vi vi phạm gặp nhiều khó khăn.

    Thứ ba, cần sửa đổi Bộ luật Hình sự theo hướng xác định cụ thể các hành vi không kê khai trung thực, đánh tráo tài sản nhằm trục lợi, tạo dựng hiện trường giả, lập hồ sơ khống, lập hồ sơ không trung thực... phải chịu trách nhiệm hình sự.

    2.2. Thành lập cơ quan chuyên trách giám sát, ngăn ngừa gian lận bảo hiểm

    Ở nước ta hiện nay, các hành vi trục lợi, gian lận bảo hiểm thường do các doanh nghiệp bảo hiểm phát hiện; trong số đó, có trường hợp bị phát hiện nhưng lại không bị xử lý, mà còn được chấp nhận chi trả bảo hiểm. Nguyên nhân là do công tác thu thập, chứng minh người tham gia bảo hiểm có hành vi cố ý khai sai thông tin, tự gây thiệt hại về sức khỏe của mình, hay cấu kết với các bên liên quan để được hưởng quyền lợi bảo hiểm là rất khó khăn, nhất là khi doanh nghiệp bảo hiểm không có sự hỗ trợ cần thiết từ phía người dân, các cơ quan nhà nước. 

    Trong điều kiện đó, việc thành lập một cơ quan chống gian lận bảo hiểm là thực sự cần thiết và cấp thiết. Việc thành lập cơ quan chống gian lận bảo hiểm sẽ là một giải pháp hiệu quả trong công tác phòng, chống gian lận bảo hiểm và tạo tính an toàn, lành mạnh trong môi trường kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam. 

    2.3. Xây dựng hệ thống dữ liệu bảo hiểm

    Việc đánh giá, theo dõi đặc điểm, hành vi trục lợi của đối tượng có thể được phân tích trực tiếp thông qua hệ thống dữ liệu bảo hiểm. Hệ thống dữ liệu bảo hiểm được xây dựng cần thiết đáp ứng các tiêu chí:

    (1) Là hệ thống mở, người dân và cộng đồng doanh nghiệp được quyền truy cập miễn phí hoặc có trả phí tùy vào mục đích sử dụng cá nhân hay thương mại (giống như hệ thống thông tin giao dịch bảo đảm của Bộ Tư pháp…).

    (2) Hệ thống hướng đến sự minh bạch thông tin của toàn thị trường, bao gồm các thông tin về kỹ thuật, nghiệp vụ, an toàn, pháp lý, thương mại, lịch sử đối tượng, lịch sử rủi ro, bồi thường trong quá khứ, hiện tại sẽ được tích hợp thống nhất.

    Mục đích của hệ thống nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia có thể tiếp cận, tra cứu để nhận biết, xem xét, sàng lọc thông tin, qua đó giúp họ chủ động hơn trong giao dịch, cơ quan nhà nước thẩm quyền có dữ liệu thực tế để xây dựng, hoạch định chính sách quản lý. 

    KẾT LUẬN

    Trục lợi và gian lận bảo hiểm ngày càng trở nên phổ biến, tinh vi và khó kiểm soát. Trước tình hình đó, pháp luật đóng vai trò là một công cụ vô cùng quan trọng trong việc ngăn ngừa trục lợi và gian lận bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay. Pháp luật hiện hành cơ bản đã có những quy định để điều chỉnh và xử lý các hành vi trục lợi, gian lận bảo hiểm. Tuy nhiên, các quy định này vẫn cần được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình hình thực tế, nhằm gia tăng hiệu quả ngăn ngừa trục lợi và gian lận bảo hiểm. 

    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

    1. Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010, 2019)

    2. Bộ luật Dân sự 2015

    3. Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

    4. Nghị định 98/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số

    5. Nghị định 48/2018/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 98/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số

    6. Bạch Thị Nhã Nam (2021), Gian lận bảo hiểm nhân thọ và giải pháp phòng, chống gian lận, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 14(438), tháng 7/2021, http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210878 (truy cập ngày 17/12/2021)

    7. Doãn Hồng Nhung (2014), Một số ý kiến hoàn thiện pháp luật về phòng ngừa, ngăn chặn trục lợi bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội: Luật học, Tập 30, Số 3 (2014), tr. 33-40 

    8. Hằng Phương (2021), Đại biểu Quốc hội: Có tình trạng lợi dụng kinh doanh bảo hiểm để huy động vốn đa cấp, Báo Quân đội nhân dân, https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tin-tuc/dei-bieu-quoc-hoi-co-tinh-trang-loi-dung-kinh-doanh-bao-hiem-de-huy-dong-von-da-cap-675771 (truy cập ngày 17/12/2021)

    9. Huỳnh Trung Hiếu (2021), Trục lợi bảo hiểm, Kinh tế Sài Gòn Online, https://thesaigontimes.vn/truc-loi-bao-hiem/ (truy cập ngày 17/12/2021)

    10. Nguyễn Thái Công (2019), Tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội 

    11. Nguyễn Thái Công (2019), Một số vấn đề về trục lợi trong kinh doanh bảo hiểm và tội gian lận kinh doanh bảo hiểm, Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp, https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2467 (truy cập ngày 17/12/2021)

    12. Nguyễn Thị Thủy (2006), Chống trục lợi bảo hiểm tài sản trong Luật kinh doanh bảo hiểm, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 9/2006, tr. 21-29 

    13. ThS. Nguyễn Thị Hoài Thu (2016), Hoàn thiện các quy định của pháp luật để ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7 (311)/Kỳ 1, tháng 4/2016, tr. 42 - 51

    14. Lan Phương (2021), Đề xuất sửa đổi Luật Kinh doanh bảo hiểm, Báo điện tử Chính phủ, http://baochinhphu.vn/Chinh-sach-moi/De-xuat-sua-doi-Luat-Kinh-doanh-bao-hiem/420982.vgp (truy cập ngày 17/12/2021)

    15. TS. Lê Thị Thảo (2017), Hoàn thiện chế tài xử lý đối với hành vi trục lợi trong bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, Số 1/2017, tr. 46-53, https://tks.edu.vn/WebTapChiKhoaHoc/Detail/185?idMenu=64 (truy cập ngày 17/12/2021)

    16. ThS. Nguyễn Thị Hoài Thu (2018), Ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm bằng các quy định về quản lý, giám sát của cơ quan nhà nước, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, https://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/phap-luat-kinh-te.aspx?ItemID=160 (truy cập ngày 17/12/2021)

    17. Nguyễn Thị Hoài Thu (2017), Ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm bằng pháp luật ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ luật học, Hà Nội 

    18. ThS. Nguyễn Thị Thủy (2007), Nhận diện hành vi trục lợi trong bảo hiểm tài sản, Tạp chí Luật học, Số 2/2007, tr. 57 – 65 

    19. Nguyễn Tiến Hùng (2015), Trục lợi bảo hiểm và chống trục lợi bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm thương mại Việt Nam: Từ lý thuyết đến thực tiễn, Tạp chí Phát triển & Hội nhập, số 23(33), tháng 07-08/2015, tr. 50-57

    20. Phương Linh (2021), Khai báo gian đối để trục lợi bảo hiểm có thể bị xử lý hình sự, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam, https://lsvn.vn/khai-bao-gian-doi-de-truc-loi-bao-hiem-co-the-bi-xu-ly-hinh-su1634319314.html (truy cập ngày 17/12/2021)

    21. Phương Thủy (2021), Kiến nghị biện pháp phòng ngừa trục lợi bảo hiểm, Báo Công an nhân dân Online, https://cand.com.vn/su-kien-binh-luan-thoi-su/kien-nghi-bien-phap-phong-ngua-truc-loi-bao-hiem-i632656/ (truy cập ngày 17/12/2021)

    22. Sông Trà (2015), Ngăn ngừa, xử lý nghiêm hành vi trục lợi bảo hiểm, Báo Nhân Dân, https://nhandan.vn/tin-tuc-xa-hoi/ngan-ngua-xu-ly-nghiem-hanh-vi-truc-loi-bao-hiem-246284 (truy cập ngày 17/12/2021)

    23. Hoài Thu (2016), Cần ngăn chặn tình trạng trục lợi bảo hiểm, Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính, https://mof.gov.vn/webcenter/portal/ttpltc/pages_r/l/chi-tiet-tin-ttpltc?dDocName=MOFUCM090191 (truy cập ngày 17/12/2021)

    24. Tâm Lụa (2020), Gian dối trục lợi bảo hiểm, 'tiền mất, tật mang', Báo Tuổi trẻ Online, https://tuoitre.vn/gian-doi-truc-loi-bao-hiem-tien-mat-tat-mang-20200820071615224.htm (truy cập ngày 17/12/2021)

    25. T.H (2017), Công tác phòng chống trục lợi bảo hiểm xe cơ giới ở một số nước trên thế giới, http://www.csgt.vn/tintuc/7090/Cong-tac-phong-chong-truc-loi-bao-hiem-xe-co-gioi-o-mot-so-nuoc-tren-the-gioi.html (truy cập ngày 18/12/2021)

    Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU

    Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

    Continue Reading

     

    MỞ ĐẦU

    Ở mỗi quốc gia, NHTW đều có vị thế đặc biệt quan trọng, là ngân hàng đứng đầu hệ thống các ngân hàng. Nếu hệ thống ngân hàng được ví là “huyết mạch” thì NHTW được xem là “trái tim” của nền kinh tế. 

    Tuy nhiên, do lịch sử phát triển ở mỗi quốc gia khác nhau nên trên thế giới hình thành nên các mô hình NHTW khác nhau. Mỗi mô hình có những đặc trưng và ưu nhược điểm nhất định. Vậy những mô hình ấy có đặc trưng ra sao, nó có mối liên hệ như thế nào với mô hình NHNN Việt Nam hiện nay? Để trả lời cho câu hỏi ấy, sau đây nhóm chúng em xin trình bày về đề tài số 03: “Trình bày mô hình hoạt động NHTW trên thế giới. Đánh giá ưu – nhược điểm mỗi mô hình và liên hệ với vị trí, vai trò của NHNN Việt Nam thể hiện trong Luật NHNN năm 2010”.

    NỘI DUNG

    I. Một số vấn đề tổng quan về Ngân hàng Trung ương

    1. Khái niệm Ngân hàng Trung ương

    NHTW là cơ quan đặc trách quản lý hệ thống tiền tệ của quốc gia/nhóm quốc gia/vùng lãnh thổ và chịu trách nhiệm thi hành CSTT. Mục đích hoạt động của NHTW là ổn định thị trường tiền tệ, và hoạt động của các ngân hàng thương mại, là ngân hàng của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác.

    2. Chức năng của Ngân hàng Trung ương

    Thứ nhất, NHTW là ngân hàng phát hành. NHTW giữ độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng và tiền kim loại; đồng thời NHTW tham gia và kiểm soát việc tạo tiền chuyển khoản của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng.

    Thứ hai, NHTW là ngân hàng của các ngân hàng. Bởi lẽ NHTW cũng cung cấp các dịch vụ cho các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng như các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng cung cấp cho khách hàng như: mở tài khoản tiền gửi và bảo quản dự trữ tiền tệ, làm trung tâm thanh toán và cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian. 

    Thứ ba, NHTW là ngân hàng nhà nước. Điều này thể hiện trên phương diện quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng như: quản lý nhà nước về các hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng đối nội và đối ngoại, NHTW xây dựng và thực thi CSTT quốc gia, nhận tiền gửi của kho bạc Nhà nước, cho NSNN vay, thay mặt Chính phủ ký kết các hiệp định về tiền tệ, tín dụng, thanh toán với nước ngoài và tổ chức tài chính – tín dụng quốc tế.

    3. Mục tiêu chung của Ngân hàng Trung ương

    Các NHTW khác nhau có thể có những mục tiêu với thứ tự ưu tiên khác nhau. Tuy nhiên, tựu trung lại, mục tiêu cuối cùng của các NHTW thường rơi vào năm nhóm sau: (i) ổn định giá cả, (ii) ổn định tỷ giá, (iii) tăng trưởng, (iv) việc làm, và (v) ổn định hệ thống tài chính; trong đó bốn nhóm đầu tiên liên quan đến ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng, và nhóm cuối cùng liên quan đến giảm rủi ro hệ thống của khu vực tài chính. Trên thực tế, mục tiêu cuối cùng quan trọng nhất của hầu hết các NHTW là ổn định giá cả và đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính.

    4. Tính độc lập của Ngân hàng Trung ương

    a) Độc lập về nhân sự

    Mức độ độc lập về mặt nhân sự được thể hiện qua quyền hạn của Thống đốc NHTW trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến nhân sự bên trong tổ chức của mình như bổ nhiệm và miễn nhiệm nhân sự, phân công nhiệm vụ và quyền hạn, chế độ lương bổng và trợ cấp... Tuy nhiên Quốc hội và Chính phủ thường có tiếng nói quyết định trong việc chỉ định các nhân sự chủ chốt của NHTW. 

    b) Độc lập về chính sách

    Sự độc lập về chính sách thể hiện ở hai khía cạnh là độc lập về mục tiêu trung gian và công cụ chính sách của NHTW. 

    Ở một số quốc gia (như Úc hay Anh), mục tiêu trung gian của CSTT (thường là tỷ lệ lạm phát) do Bộ Tài chính cùng với NHTW quyết định. Ở một số quốc gia khác (như Mỹ hay EU), mục tiêu trung gian này hoàn toàn do NHTW quyết định. 

    Sau khi có mục tiêu trung gian, NHTW cần có mục tiêu công cụ để thực hiện CSTT. Mục tiêu công cụ thường là lãi suất cơ bản trên thị trường liên ngân hàng, tỷ giá trung tâm hay biên độ dao động của tỷ giá. Những chỉ số này thường được một hội đồng CSTT quốc gia quyết định. Mặc dù hội đồng này trong nhiều trường hợp là một bộ phận của NHTW, các thành viên tham gia có thể bao gồm đại diện Quốc hội, Chính phủ, giới doanh nghiệp bên ngoài, và giới chuyên gia kinh tế. 

    c) Độc lập về tài chính

    Mức độ độc lập về tài chính của NHTW được thể hiện qua ba khía cạnh. 

    Thứ nhất, NHTW có quyền tự chủ trong việc quyết định phạm vi và mức độ tài trợ cho chi tiêu của Chính phủ một cách trực tiếp hay gián tiếp bằng tín dụng của NHTW. 

    Thứ hai, NHTW có nguồn tài chính đủ lớn để không phải phụ thuộc vào sự cấp phát tài chính của Chính phủ, mà cụ thể là Bộ Tài chính. 

    Thứ ba, người đứng đầu của NHTW (thống đốc) có quyền quyết định hầu hết các khoản chi tiêu của tổ chức này trong khuôn khổ dự toán ngân sách đã được phê duyệt. 

    II. Các mô hình Ngân hàng Trung ương trên thế giới

    1. Mô hình Ngân hàng Trung ương độc lập với Chính phủ

    Mô hình NHTW độc lập với Chính phủ là mô hình NHTW không nằm trong cơ cấu bộ máy của Chính phủ và không chịu sự lãnh đạo, điều hành của Chính phủ. Quan hệ giữa NHTW và Chính phủ là quan hệ hợp tác. Chính phủ không có quyền can thiệp vào hoạt động của NHTW mặc dù ban lãnh đạo của ngân hàng do Tổng thống hay Thủ tướng bổ nhiệm. Chính quyền không được phế truất thống đốc. NHTW có toàn quyền quyết định việc xây dựng và điều hành CSTT, chính sách tỉ giá, chính sách lãi suất mà không bị ảnh hưởng bởi áp lực chi tiêu của ngân sách hoặc các áp lực chính trị khác. Điển hình cho mô hình này là NHTW ở các nước như Hoa Kỳ, Đức, Nga.

    * Mô hình NHTW Hoa Kỳ - Cục dự trữ liên bang Hoa Kỳ (FED)

    Đạo luật về Cục dự trữ Liên bang Hoa Kỳ 1913 khẳng định Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ có vị trí độc lập với Chính phủ, trực thuộc Quốc hội, độc lập trong việc quyết định cung ứng tiền tệ và thực hiện CSTT.

    Cục Dự trữ liên bang bao gồm Hội đồng thống đốc đóng tại thủ đô Washington D.C. được chỉ định bởi Tổng thống Hoa Kỳ, Ủy ban thị trường, 12 ngân hàng dự trữ liên bang khu vực và các ngân hàng thành viên có sở hữu một phần ở các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực.

    Số lượng thành viên của Hội đồng thống đốc không quá 07 người, tổng nhiệm kì của mỗi người không vượt quá 14 năm. Mỗi người trong Hội đồng sẽ do Tổng thống đề cử và Thượng viện thông qua. Chủ tịch Hội đồng và Phó Chủ tịch sẽ do Tổng thống chỉ định trong số 07 người với nhiệm kì 04 năm một lần.  Hội đồng thống đốc sẽ giám sát và quản lý hoạt động của 12 ngân hàng dự trữ thành viên và các chi nhánh.

    Theo Đạo luật dự trữ liên bang, Hội đồng Thống đốc của FED là cơ quan độc lập của Chính phủ liên bang và 07 thành viên của Hội đồng hoạt động theo cơ chế dân chủ. Thành viên của Hội đồng là độc lập và không phải chấp hành yêu cầu của hệ thống lập pháp cũng như hành pháp. Thành viên của Hội đồng chỉ rời chức vụ khi mãn hạn. Do đó, nhân sự của FED không chịu sự chi phối của Chính phủ. Hội đồng cũng không nhận tài trợ của Quốc hội, từ Bộ Tài chính, do đó, FED không phụ thuộc vào Bộ Tài chính. Hội đồng Thống đốc chịu trách nhiệm về việc hình thành và cụ thể hóa CSTT, do đó mục tiêu và các công cụ CSTT của FED không bị phụ thuộc vào Chính phủ. Trên thực tế, chi tiết các cuộc giao dịch của FED chưa bao giờ được công bố. Chính phủ và Bộ Tài chính Hoa Kỳ chỉ biết chính xác con số mà FED nộp vào ngân sách hàng năm nhưng doanh thu thực sự của FED vẫn là một ẩn số.

    * Ưu điểm của mô hình Ngân hàng Trung ương độc lập với Chính phủ

    Thứ nhất, NHTW có toàn quyền quyết định việc xây dựng và thực hiện CSTT mà không bị áp lực chi tiêu của ngân sách hoặc các áp lực kinh tế khác. NHTW có thể từ chối các mục tiêu gây thâm hụt ngân sách. Việc NHTW được quyết định trong việc thực thi chính sách làm tăng tính chủ động và giảm độ chậm trễ của CSTT.

    Thứ hai, việc NHTW độc lập với Chính phủ sẽ góp phần tăng hiệu quả của mục tiêu kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế giảm thâm hụt ngân sách và ổn định hệ thống tài chính.

    * Hạn chế của mô hình Ngân hàng Trung ương độc lập với Chính phủ

    Điểm bất lợi chủ yếu của mô hình này là khó có thể kết hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ (do NHTW thực hiện) và chính sách tài khóa (do Chính phủ chi phối) để quản lý vĩ mô một cách hiệu quả. Bên cạnh đó còn có nguy cơ NHTW bị thâu tóm cũng như chịu sự kiểm soát của tư nhân, các nhà tài phiệt ngân hàng, tài chính nếu không có cơ chế phù hợp.

    2. Mô hình Ngân hàng Trung ương thuộc Chính phủ

    Mô hình NHTW thuộc Chính phủ là mô hình trong đó NHTW là ngân hàng nằm trong cơ cấu bộ máy của Chính phủ và chịu sự lãnh đạo, điều hành trực tiếp của Chính phủ. Chính phủ có quyền can thiệp rất lớn, không chỉ trên phương diện tổ chức, điều hành mà còn trong hoạt động thực hiện CSTT quốc gia. NHTW được ví như công cụ của Chính phủ trong việc điều tiết giá trị đồng tiền và huy động các nguồn tài chính trong nền kinh tế. Mô hình này được áp dụng tại nhiều quốc gia như Pháp, Trung Quốc, Việt Nam, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore...

    Mô hình này được hình thành dựa trên cơ sở Chính phủ là cơ quan hành pháp, thực hiện chức năng quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế. Với vị trí này, Chính phủ phải nắm trong tay các công cụ kinh tế vĩ mô để sử dụng nó một cách đồng bộ và phối hợp các công cụ nhằm vận hành nền kinh tế trôi chảy và hiệu quả. 

    * Mô hình NHTW Trung Quốc – Ngân hàng nhân dân Trung Quốc

    Luật Ngân hàng nhân dân Trung Quốc quy định: “Ngân hàng nhân dân Trung Quốc là NHTW của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Dưới sự lãnh đạo của Quốc vụ viện, Ngân hàng nhân dân Trung Quốc hoạch định và thực thi CSTTQG, ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tài chính và duy trì sự ổn đinh tài chính” (Điều 2); “Toàn bộ vốn của Ngân hàng nhân dân Trung Quốc do nhà nước cấp và thuộc sở hữu của nhà nước” (Điều 8). Như vậy, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc là một cơ quan thuộc Quốc vụ viện Trung Quốc (Chính phủ) và thuộc sở hữu nhà nước. 

    Người lãnh đạo và điều hành Ngân hàng nhân dân Trung Quốc là Thống đốc, một số Phó Thống đốc và Hội đồng CSTT quốc gia. Thống đốc Ngân hàng phải được Thủ tướng Quốc vụ viện đề cử và Quốc hội quyết định. Khi chưa đến kỳ họp Quốc hội thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định và do Chủ tịch nước bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm. Các Phó Thống đốc do Thủ tướng Quốc vụ viện bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm (Điều 10).

    Hội đồng CSTTQG được thành lập bởi Ngân hàng nhân dân Trung Quốc, có chức năng, nhiệm vụ tổ chức các thủ tục làm việc do Quốc vụ viện quy định và báo cáo lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Hội đồng CSTT quốc gia đóng vai trò quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô cũng như hoạch định và điều hành CSTT quốc gia.

    * Ưu điểm của mô hình NHTW thuộc Chính phủ

    Thứ nhất, mô hình NHTW thuộc Chính phủ luôn tạo ra sự thống nhất, đồng bộ giữa CSTT quốc gia với chính sách phát triển kinh tế - xã hội bởi cả hai chính sách này đều được kiểm soát bởi một đầu mối là Chính phủ. Trong mô hình này, Chính phủ có thể dễ dàng phối hợp điều hành CSTT của NHTW đồng bộ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm đảm bảo sự tác động hiệu quả của tổng thể các chính sách đối với các mục tiêu vĩ mô trong từng thời kỳ. Mô hình này được xem là phù hợp với yêu cầu cần tập trung quyền lực để khai thác tiềm năng xây dựng kinh tế trong thời kì đang phát triển.

    Thứ hai, mối quan hệ trực thuộc giữa NHTW và Chính phủ còn đảm bảo sự giám sát thường xuyên của Chính phủ và kịp thời can thiệp để đảm bảo hài hòa các lợi ích, hạn chế tình trạng NHTW “lạm dụng” vai trò, vị trí của mình và thiếu sự hợp tác với Chính phủ.

    Thứ ba, mô hình này giúp Chính phủ nắm trong tay nguồn lực tài chính ổn định và tập trung để thực hiện các mục tiêu mà Chính phủ đặt ra.

    * Nhược điểm của mô hình NHTW thuộc Chính phủ

    Thứ nhất, mô hình NHTW thuộc Chính phủ làm mất đi sự chủ động trong việc thực hiện CSTT của NHTW, có thể dẫn tới tình trạng Chính phủ lạm quyền trong việc phát hành tiền, cung cấp tín dụng cho ngân sách. Hoạt động phát hành tiền có thể bị lạm dụng để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước. Do chịu sự lãnh đạo, chi phối của Chính phủ nên NHTW không được quyền tự do hành động trong việc hoạch định cũng như điều hành CSTT quốc gia. Tính độc lập hạn chế này gây khó khăn cho NHTW trong việc bảo vệ các mục tiêu CSTT quốc gia – mục tiêu quan trọng nhất của NHTW.

    Thứ hai, sự hạn chế về tính độc lập hạn chế của NHTW có nguy cơ dẫn đến tình trạng lạm phát cao. Về mặt lý thuyết NHTW càng độc lập thì mục tiêu duy trì tỷ lệ lạm phát thấp càng dễ thực hiện. 

    3. Mô hình Ngân hàng Trung ương thuộc Bộ Tài chính

    Lịch sử đã từng ghi nhận mô hình NHTW trực thuộc Bộ Tài chính, đó là một mô hình được xây dựng khi Bộ tài chính còn làm chức năng phát hành tiền. Tuy nhiên, mô hình này được đánh giá là không thành công trong việc điều hành và thực thi CSTT và quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế thị trường. Việc phát hành tiền không thể thực hiện một cách tùy tiện, theo ý chí chủ quan của một cá nhân hay tổ chức nào, nó phải tuân theo những nguyên tắc và quy luật khách quan của nền kinh tế, phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế và phải điều chỉnh thường xuyên khối lượng tiền cung ứng theo quan hệ cung cầu. Mô hình này xuất hiện đầu tiên ở Pháp, Anh sau đó áp dụng ở một số nước châu Á như Malaysia, Thái Lan, Indonesia... sau đó vì những khiếm khuyết của mô hình này mà hầu hết các quốc gia không còn áp dụng.

    Đây là mô hình ít phổ biến, bởi lẽ hoạt động của NHTW phụ thuộc vào Bộ Tài chính, dễ xảy ra khả năng Bộ Tài chính sử dụng công cụ phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt ngân sách, gây ra tình trạng lạm phát cao trong nền kinh tế, ảnh hưởng trầm trọng tới đời sống của nhân dân. Mô hình này đã tạo ra mâu thuẫn giữa một cơ quan thực hiện nhiệm vụ ngân sách với một cơ quan phát hành tiền và điều tiết lượng tiền cung ứng.

     III. Vị trí pháp lý và vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

    1. Vị trí pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

    Khoản 1 Điều 2 Luật Ngân hàng nhà nước 2010 quy định:

    “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng Nhà nước) là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”

    Như vậy, theo quy định này, NHNN vừa có vị trí là một bộ trong cơ cấu tổ chức của Chính phủ, vừa có vị trí là NHTW.

    Với vị trí pháp lí là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, theo quy định của Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam, NHNN là cơ quan ngang bộ có chức năng quản lí nhà nước về tiền tệ và ngân hàng.

    Với trị trí pháp lí là NHTW, NHNN là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.

    Mục tiêu hoạt động của NHNN được quy định tại Điều 4 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam: hoạt động của Ngân hàng nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền; bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ thống thanh toán quốc gia, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu hoạt động vì lợi ích quốc gia của Ngân hàng nhà nước là tiêu chí để phân biệt hoạt động của nó với hoạt động ngân hàng của các định chế tài chính – tín dụng khác trong nền kinh tế.

    2. Vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

    Thứ nhất, đóng vai trò là cơ quan ngang bộ có chức năng quản lí nhà nước về tiền tệ và ngân hàng, NHNN được pháp luật trao cho các nhiệm vụ và quyền hạn:

    - Tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

    - Xây dựng chiến lược phát triển ngành ngân hàng trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện.

    - Ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; tuyên truyền, phổ biến và kiểm tra theo thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng.

    - Xây dựng chỉ tiêu lạm phát hằng năm để Chính phủ trình Quốc hội quyết định và tổ chức thực hiện.

    - Tổ chức, điều hành và phát triển thị trường tiền tệ.

    - Cấp, sửa đổi, bổ sung, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của tổ chức tín dụng, giấy phép thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài, giấy phép thành lập văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán cho các tổ chức không phải là ngân hàng; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng cho các tổ chức; chấp thuận việc mua, bán, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập và giải thể tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật.

    - Thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp thực hiện chức năng, nhiệm vụ của NHNN, tổ chức tín dụng có vốn nhà nước theo quy định của pháp luật; được sử dụng vốn pháp định để góp vốn thành lập doanh nghiệp đặc thù nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của NHNN theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

    - Kiểm tra, thanh tra, giám sát ngân hàng; xử lý vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng theo quy định của pháp luật.

    - Quyết định áp dụng biện pháp xử lý đặc biệt đối với tổ chức tín dụng vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng, gặp khó khăn về tài chính, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống ngân hàng, gồm mua cổ phần của tổ chức tín dụng; đình chỉ, tạm đình chỉ, miễn nhiệm chức vụ người quản lý, người điều hành của tổ chức tín dụng; quyết định sáp nhập, hợp nhất, giải thể tổ chức tín dụng; đặt tổ chức tín dụng vào tình trạng kiểm soát đặc biệt; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật về phá sản đối với tổ chức tín dụng.

    - Chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng chính sách, kế hoạch và tổ chức thực hiện phòng, chống rửa tiền.

    - Thực hiện quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi.

    -  Chủ trì lập, theo dõi, dự báo và phân tích kết quả thực hiện cán cân thanh toán quốc tế.

    - Quản lý nhà nước về ngoại hối, hoạt động ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng.

    - Quản lý việc vay, trả nợ, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài theo quy định của pháp luật.

    - Chủ trì, phối hợp với cơ quan có liên quan chuẩn bị nội dung, tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế với tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế mà NHNN là đại diện và là đại diện chính thức của người vay quy định tại điều ước quốc tế theo phân công, uỷ quyền của Chủ tịch nước hoặc Chính phủ.

    - Tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế về tiền tệ và ngân hàng.

    - Đại diện cho Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức tiền tệ và ngân hàng quốc tế.

    - Thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các tổ chức hoạt động thông tin tín dụng.

    - Tham gia với Bộ Tài chính về việc phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu do Chính phủ bảo lãnh.

    - Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về tiền tệ và ngân hàng; nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ ngân hàng.

    Thứ hai, với vai trò NHTW, NHNN được pháp luật trao cho các nhiệm vụ và quyền hạn:

    - Tổ chức in, đúc, bảo quản, vận chuyển tiền giấy, tiền kim loại; thực hiện nghiệp vụ phát hành, thu hồi, thay thế và tiêu huỷ tiền giấy, tiền kim loại.

    - Làm đại lý và thực hiện các dịch vụ ngân hàng cho Kho bạc Nhà nước.

    - Tổ chức hệ thống thông tin tín dụng và cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng;

    - Quản lý Dự trữ ngoại hối nhà nước.

    - Tổ chức hệ thống thống kê, dự báo về tiền tệ và ngân hàng; công khai thông tin về tiền tệ và ngân hàng theo quy định của pháp luật.

    - Tổ chức, quản lý, giám sát hệ thống thanh toán quốc gia, cung ứng dịch vụ thanh toán cho các ngân hàng; tham gia tổ chức và giám sát sự vận hành của các hệ thống thanh toán trong nền kinh tế.

    3. Mối quan hệ giữa mô hình Ngân hàng Trung ương Việt Nam và vị trí, vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

    Ở Việt Nam, NHTW được thiết lập theo mô hình NHTW trực thuộc Chính phủ.

    Với mô hình này, Chính phủ có thể dễ dàng phối hợp điều hành CSTT của NHTW đồng bộ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm đảm bảo sự tác động hiệu quả của tổng thể các chính sách đối với các mục tiêu vĩ mô trong từng thời kỳ. Mô hình này phù hợp với yêu cầu cần tập trung quyền lực để khai thác tiềm năng xây dựng kinh tế trong thời kì đang phát triển ở nước ta hiện nay. Những quy định của pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của NHNN Việt Nam đã có nhiều điểm tích cực, thể hiện những bước tiến trong mục tiêu xây dựng NHNN trở thành một NHTW hiện đại, có tính tự chủ và độc lập cao theo định hướng của Đảng và Nhà nước, phù hợp với nền kinh tế thị trường và yêu cầu hội nhập. 

    Tuy nhiên, mô hình này cũng đem đến nhiều hạn chế, bất cập trong việc đảm bảo tính độc lập, hiệu quả của NHTW.

    Pháp luật hiện hành cho phép Chính phủ và Thủ tướng được quy định chi tiết cơ cấu tổ chức và hướng dẫn hoạt động của NHNN. Về bản chất, mối quan hệ giữa Chính phủ và NHNN là mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới. Pháp luật hiện hành cũng cho phép Chính phủ, Thủ tướng áp đặt các mệnh lệnh buộc NHNN phải thực hiện như can thiệp, chi phối trực tiếp vào việc quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu CSTT quốc gia ; Thủ tướng có quyền quyết định NHNN phải bảo lãnh cho tổ chức tín dụng vay vốn nước ngoài ; Thủ tướng có quyền quyết định NHNN phải tạm ứng cho ngân sách trung ương để xử lí thiếu hụt tạm thời quỹ NSNN . 

    Thực tiễn cho thấy, NHNN mới chỉ chủ yếu giữ chức năng là cơ quan chấp hành trong việc điều hành CSTT cho Chính phủ chứ chưa phải là cơ quan giữ vai trò chính trong việc xây dựng, điều hành CSTT quốc gia. Trên thực tế, NHNN Việt Nam có mức độ độc lập thấp và chịu sự can thiệp hành chính toàn diện của Chính phủ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của NHNN nhất là trong việc thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định thị trường tiền tệ và hệ thống tài chính. 

    Vì vậy, nâng cao tính độc lập của NHNN là một trong những điều kiện tiên quyết để tạo tiền đề căn bản trong hiệu quả hoạt động và là nền tảng quan trọng bảo đảm NHNN thực sự là NHTW.

    Nhằm tăng tính độc lập của NHNN Việt Nam, pháp luật cần được sửa đổi theo hướng:

    Thứ nhất, trao quyền cho NHNN được thực sự độc lập trong quyết định thực thi chính sách và việc lựa chọn công cụ điều hành. Thống đốc NHNN phải được trao quyền quyết định trong việc thực thi chính sách tiền tệ và tự chịu trách nhiệm về các quyết định đó mà không cần thông qua Chính phủ.

    Thứ hai, pháp luật cần quy định cho Thống đốc NHNN quyền từ chối tạm ứng chi ngân sách hay tài trợ trực tiếp cho thâm hụt NSNN của Chính phủ.

    Thứ ba, NHNN cần có sự độc lập tương đối với Chính phủ. Chính phủ chỉ nên quản lý NHNN về mục tiêu, định hướng phát triển, các chỉ tiêu cơ bản mà không can thiệp quá sâu vào nghiệp vụ cụ thể của NHNN. Đặc biệt, các quyết định điều hành CSTT và sử dụng các công cụ CSTT phải thuộc thẩm quyền của NHNN.

    Thứ tư, Bên cạnh việc trao quyền chủ động cho NHNN, pháp luật cũng cần quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của NHNN trong việc thực hiện chức năng của mình.

    KẾT LUẬN

    Qua những phân tích ở trên, chúng ta đã hiểu rõ về đặc trưng cũng như những ưu – nhược điểm của từng mô hình NHTW trên Thế giới. Mỗi đất nước khác nhau với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội khác nhau thì việc lựa chọn mô hình NHTW cũng khác nhau. Hiện nay, NHNN Việt Nam là một cơ quan thuộc Chính phủ đóng những vai trò to lớn trong nền kinh tế. Sự lựa chọn mô hình này là phù hợp với điều kiện đất nước, tuy vậy pháp luật cần tăng cường tính độc lập cho NHNN để NHNN thực hiện đúng vai trò là NHTW của mình.

    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

    1. Luật Ngân hàng nhà nước 2010

    2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam, NXB Công an Nhân dân, 2017

    3. PGS. TS. Lê Thị Thu Thủy (2013), Tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Trung ương các nước và những gợi ý về triển vọng hiến định ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, http://www.lapphap.vn/Pages/TinTuc/207122/To-chuc-va-hoat-dong-cua-ngan-hang-trung-uong-cac-nuoc-va-nhung-goi-y-ve-trien-vong-hien-dinh-o-viet-nam.html (truy cập ngày 07/11/2021)

    4. ThS. Nguyễn Văn Thuyết (2020), Nghiên cứu mô hình ngân hàng trung ương hiện đại phù hợp với thực tế Việt nam hiện nay

    5. Đỗ Thiên Anh Tuấn - Trần Thanh Hằng - Nguyễn Thanh Nhã (2012), Tính độc lập của ngân hàng trung ương, Tạp chí Tài chính, https://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/tinh-doc-lap-cua-ngan-hang-trung-uong-6843.html (truy cập ngày 07/11/2021)

    6. ThS. Tô Mai Thanh (2013), Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong điều hành các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, Tạp chí Nghề luật, số 4/2013, tr. 68-69, 72.

    7. Viên Thế Giang (2018), Tính độc lập của ngân hàng nhà nước Việt Nam khi thực hiện chức năng ngân hàng trung ương, Tạp chí Luật học, Số 8/2018, tr. 16 - 27.

    8. Somkhen Sengchanh (2016), Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – So sánh với địa vị pháp lý của Ngân hàng quốc gia Lào, Luận văn thạc sĩ luật học

    Xem thêm: TỔNG HỢP BÀI TẬP NHÓM - BÀI TẬP LỚN - BÀI TẬP CÁ NHÂN - TIỂU LUẬN CÁC MÔN HLU

    Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395

    Continue Reading
    Newer
    Stories
    Older
    Stories

    About me

    REY A law practitioner

    Một người trẻ đam mê và đang trên con đường theo đuổi ngành Luật. Tốt nghiệp Cử nhân Luật tại HLU và đang học Luật sư & Thạc sĩ Luật. Read More

    Donate me

    Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha:
    BIDV

    Follow me on Facebook

    Follow me on Youtube

    Labels

    CHUYỆN ĐI LÀM (3) ĐỀ THI HẾT MÔN (14) HỌC LUẬT Ở HLU (6) HỌC LUẬT SƯ (6) LUẬT HÀNH CHÍNH (47) LÝ LUẬN CHUNG (111) TIỂU LUẬN (50)

    Cảm ơn đã ghé thăm

    recent posts

    Popular Posts

    • Phân tích đặc trưng cơ bản của nhà nước. Trên cơ sở đó, làm sáng tỏ biểu hiện một đặc trưng của nhà nước Việt Nam hiện nay.
    • 80 CÂU VẤN ĐÁP LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT (có đáp án)

    Blog Archive

    • tháng 8 2025 (1)
    • tháng 6 2024 (2)
    • tháng 3 2024 (2)
    • tháng 2 2024 (1)
    • tháng 1 2024 (8)
    • tháng 10 2023 (30)
    • tháng 9 2023 (115)
    • tháng 8 2023 (73)
    facebook youtube

    Created with by BeautyTemplates

    Back to top