Được tạo bởi Blogger.
facebook youtube

Rey & Law

    • Home
    • HỌC LUẬT Ở HLU
    • HỌC LUẬT SƯ
    • HỌC THẠC SĨ
    • CHUYỆN ĐI LÀM
    • TỰ HỌC LUẬT

     



    * Phân tích nguyên tắc khách quan:

    - Pháp luật là hiện tượng có tính khách quan, pháp luật sinh ra do nhu cầu đòi hỏi của xã hội, phải phản ánh đúng nhu cầu khách quan của xã hội, xuất phát từ thực tế cuộc sống, phù hợp với thực tế cuộc sống.

    - Nhà làm luật không phát minh ra luật, mà chỉ ghi nhận những quy luật phát triển của xã hội bằng quy phạm pháp luật. Pháp luật là sự nhận thức chủ quan của con người đối với thế giới khách quan, con người nhận thức tồn tại xã hội rồi đưa ra các quy tắc cho hành vi con người.

    - Do vậy, quá trình xây dựng pháp luật phải phản ánh được nhưng yêu cầu khách quan về sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật dối với các quan hệ xã hội nhất định. Nội dung của các quy định pháp luật phải phù hợp với các quy luật khách quan, bảo đảm phát huy vai trò tích cực của pháp luật đối vứi đời sống xã hội.

    - Để đảm bảo nguyên tắc tôn trọng quy luật khách quan trong xây dựng pháp luật thì trước khi bắt tay vào xây dựng pháp luật cần:

    + Nghiên cứu sâu sắc thực tiễn xã hội, các điều kiện kinh tế, chính trị, tư tưởng, tâm lí xã hội; đặc điểm dân cư, nhu cầu của các tầng lớp, các nhóm nghề nghiệp; vấn đề dân tộc và sắc tộc; khả năng thực hiện các quy định pháp luật trên thực tế… thông tin từ việc nghiên cứu này sẽ là cơ sở tốt để XD các quy định pháp luật phù hợp.

    + Phải nghiên cứu thực tiễn pháp lí trước đó như thực tiễn quản lí, thực tiễn xét xử, hoạt động của các tổ chức và cá nhân trong xã hội… Tránh hiện tượng: “pháp luật trên trời, cuộc đời dưới đất.”

    - Các dự án luật phải được nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng, đặc biệt là cần có nhiều phương án để cho các cơ quan có thẩm quyền lựa chọn. Sau khi đã có phương án điều chỉnh cần phải có sự thẩm định, đánh giá về các mặt kinh tế, xã hội, khoa học… để pháp luật sẽ mang lại hiệu quả cao.

    * Ý nghĩa của nguyên tắc này:

    - Nguyên tắc này giúp đảm bảo tính khách quan, sát với thực tế của pháp luật.

    - Có khách quan, sát với thực tế thì pháp luật mới có hiệu quả trong điều chỉnh các quan hệ xã hội, mới dễ dàng đi vào đời sống, tránh trường hợp “pháp luật trên trời, cuộc đời dưới dất.”

    - Nếu pháp luật không khách quan thì sẽ kìm hãm sự phát triển của các quan hệ xã hội, kìm hãm sự phát triển của đời sống xã hội.

    - Nguyên tắc này giúp hệ thống pháp luật ngày càng tiến bộ, hoàn thiện, phù hợp với thực tiễn hơn, hoạt động 1 cách trơn tru, có hiệu quả, loại bỏ những sai lầm, sự chủ quan, duy ý chí…

    Xem thêm: 80 CÂU VẤN ĐÁP LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT HLU (download file bộ câu hỏi vấn đáp ở bài này)

    Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395


    Continue Reading

     



    * Phân tích nguyên tắc dân chủ:

    - Nguyên tắc này đòi hỏi hiến pháp, luật phải được ban hành bằng con đường trưng cầu ý dân hoặc bởi cơ quan đại diện do nhân dân bầu ra. Các dự án luật, các đạo luật đã được ban hành cần phải được thông tin đầy đủ, rộng rãi đến nhân dân, nhất là đối với các đối tượng áp dụng pháp luật.

    - Việc xây dựng pháp luật có sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân, nhằm làm cho pháp luật thể hiện được ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân trong xã hội.

    - Nguyên tắc này cho phép phát huy trí tuệ của đông đảo tầng lớp nhân dân trong xã hội vào hoạt động xây dựng pháp luật, đồng thời góp phần nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân.

    - Không chỉ bảo đảm sự công khai, còn phải bảo đảm sự minh bạch trong quá trình xây dựng pháp luật. Tất cả công đoạn, quy trình của quá trình xây dựng pháp luật, các nguyên tắc xây dựng pháp luật đều cần phải được quy định rõ ràng, rành mạch.

    - Để đảm bảo nguyên tắc này, nhà nước phải không ngừng mở rộng dân chủ, các cơ quan nhà nước, những chủ thể có thẩm quyền xây dựng pháp luật phải thực sự lắng nghe ý kiến của nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia đông đảo và phải coi đó là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình.

    * Để hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam thực sự dân chủ:

    - Tăng cường giáo dục, nâng cao trình độ nhận thức cho người dân, tích cực tuyên truyền để người dân biết được về quyền làm chủ của mình.

    - Người dân phải tích cực, tự giác tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật.

    VD: tích cực đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật; tích cực đi bỏ phiếu khi có trưng cầu ý dân, tham gia trình dự án luật…

    - Các quyền con người, quyền công dân phải được ghi nhận trong Hiến pháp và phải có cơ chế bảo hiến.

    - Nhà nước phải tạo mọi thuận lợi cần thiết để người dân được tiếp cận thông tin, được thảo luận, đóng góp ý kiến trong các vấn đề của đất nước. Quá trình lấy ý kiến người dân phải đảm bảo khách quan, minh bạch, nhanh chóng…

    - Phải có các văn bản luật cụ thể quy định rõ ràng cách thức thực hiện các quyền chính trị của công dân: quyền khiếu nại, tố cáo, quyền trình dự án luật, quy trình lấy ý kiến người dân, vấn đề trưng cầu ý dân…

    Xem thêm: 80 CÂU VẤN ĐÁP LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT HLU (download file bộ câu hỏi vấn đáp ở bài này)

    Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395


    Continue Reading

     



    * Phân tích khái niệm:

    - Hệ thống nguồn pháp luật được xem là tập hợp tất cả các nguồn pháp luật, quan trọng hơn cả là các loại văn bản quy phạm pháp luật có mối liên hệ mật thiết với nhau, được sắp xếp một cách thống nhất, phù hợp với nhau vừa theo tính chất của các quan hệ xã hội mà chúng điều chỉnh, vừa theo trật tự thang bậc hiệu lực pháp luật của chúng.

    - Theo trật tự thứ bậc hiệu lực pháp luật thì các nguồn pháp luật được sắp xếp thành tòa tháp với trật tự nguồn pháp luật có hiệu lực pháp luật cao nhất (Hiến pháp) ở trên cùng, tiếp đến là các nguồn pháp luật khác (văn bản luật thông thường), rồi đến các nguồn pháp luật và văn bản dưới luật (phụ thuộc thẩm quyền và vị trí của các cơ quan đã ban hành ra chúng).

    - Giữa các nguồn pháp luật luôn có mối liên hệ, ràng buộc theo cả chiều ngang và chiều dọc, nhất là các văn bản cùng quy định về một vấn đề không được chồng chéo, mâu thuẫn với nhau.

    Các nguồn pháp luật có hiệu lực pháp luật thấp không được trái với các nguồn pháp luật có hiệu lực pháp luật cao.

    Nếu các nguồn pháp luật có hiệu lực pháp luật khác nhau quy định về cùng một vấn đề mà mâu thuẫn nhau thì thực hiện theo nguồn pháp luật có hiệu lực pháp luật cao hơn hoặc theo thứ tự ưu tiên đối với loại nguồn đó.

    - Có thể nói, mối quan hệ giữa hệ thống quy phạm pháp luật và hệ thống nguồn pháp luật mà mối quan hệ giữa nội dung và hình thức.

    Mặc dù có liên hệ chặt chẽ với nhau nhưng hệ thống quy phạm pháp luật và hệ thống nguồn pháp luật không đồng nhất với nhau. Điều này thể hiện ở chỗ:

    + Xem xét hệ thống quy phạm pháp luật là xem xét cấu trúc bên trong của pháp luật, biểu hiện ở việc phân định các quy định pháp luật; còn xem xét HT nguồn pháp luật là xem xét trật tự của các nguồn pháp luật và mối liên hệ giữa chúng.

    + Trong hệ thống nguồn pháp luật ngoài việc chứa đựng các quy phạm pháp luật còn có thể chứa cả những nội dung không phải là quy phạm pháp luật (lời nói đầu, các nguyên tắc pháp luật…)

    + Cấu tạo của hệ thống quy phạm pháp luật không trùng với cấu tạo của hệ thống nguồn pháp luật.

    + Hệ thống quy phạm pháp luật có tính khách quan, còn hệ thống nguồn pháp luật mang nhiều yếu tố chủ quan, phụ thuộc ý chí cả chủ thể ban hành pháp luật

    * Vai trò của các loại nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay:

    - Văn bản quy phạm pháp luật:

    + Là nguồn chủ yếu và quan trọng nhất của pháp luật Việt Nam hiện nay.

    + Các loại văn bản quy phạm pháp luật được chia thành 2 loại: văn bản luật và văn bản dưới luật.

    + Hiến pháp là VBPL có hiệu lực pháp lí cao nhất, thứ tự cao thấp về hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật phụ thuộc vào cơ quan ban hành ra chúng.

    - Tập quán pháp:

    + Là nguồn bổ sung quan trọng cho các văn bản quy phạm pháp luật, lấp những khoảng trống trong văn bản quy phạm pháp luật.

    + Có vai trò giải quyết những tình huống mà không có pháp luật quy định. 

    + Nguồn này đảm bảo sự hợp lí, phù hợp trong việc giải quyết các tình huống thực tế, chính xác với điều kiện của mỗi vùng miền.

    - Án lệ:

    + Góp phần bổ sung cho những thiếu sót, những lỗ hổng của pháp luật thành văn, khắc phục tình trạng thiếu pháp luật.

    + Tạo điều kiện cho việc áp dụng pháp luật được dễ dàng, thuận lợi hơn.

    - Điều ước quốc tế:

    + Là 1 loại nguồn pháp luật quan trọng của PLVN hiện nay.

    + Nếu cùng 1 vấn đề, giữa pháp luật trong nước và điều ước quốc tế có quy định khác nhau thì thứ tự ưu tiên là Hiến pháp, điều ước quốc tế, các văn bản luật, các văn bản dưới luật.

    + Giúp giải quyết các vụ việc có yếu tố nước ngoài.

    - Quan niệm, quan điểm đạo đức xã hội:

    + Các quan niệm đạo đức xã hội nhiều khi được pháp luật dẫn chiếu làm căn cứ pháp lí để các chủ thể thực hiện hành vi thực tế.

    + BLDS quy định, trong trường hợp pháp luật không có quy định, các bên không có thỏa thuận, cũng không có tập quán hay quy định điều chỉnh vụ việc tương tự thì có thể áp dụng quan niệm về lẽ công bằng trong xã hội.

    + Góp phần bổ sung cho những thiếu sót của pháp luật thành văn, lấp lỗ hổng pháp luật.

    - Hợp đồng:

    + Thỏa thuận giữa các bên là căn cứ pháp lí để các bên thực hiện hành vi của mình, đó cũng là căn cứ quan trọng để các chủ thể có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nếu có. Trong nhiều trường hợp, thỏa thuận của các bên được đề cập trước quy định của pháp luật, tập quán…

    - Pháp luật nước ngoài:

    + Giúp giải quyết các vụ việc có yếu tố nước ngoài.

    Xem thêm: 80 CÂU VẤN ĐÁP LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT HLU (download file bộ câu hỏi vấn đáp ở bài này)

    Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395


    Continue Reading

     



    * Phân tích các yếu tố cấu thành của hệ thống quy phạm pháp luật:

    Hệ thống quy phạm pháp luật gồm các thành tố cơ bản là: quy phạm pháp luật, chế định pháp luật, ngành luật. Ngoài ra còn có các thành tố khác như phân ngành luật, tổ hợp các ngành luật...

    - Quy phạm pháp luật:

    + Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành và được nhà nước bảo đảm thực hiện.

    + Quy phạm pháp luật là một hệ thống nhỏ, được cấu tạo từ các bộ phận như giả định, quy định, chế tài pháp luật.

    - Chế định pháp luật:

    + Chế định pháp luật là tập hợp bao gồm một nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội có liên quan mật thiết với nhau. Tính chất chung của mỗi nhóm quan hệ xã hội đòi hỏi phải có những nhóm quy phạm pháp luật tương ứng để điều chỉnh.

    + Tồn tại chế định pháp luật của ngành luật (gồm nhóm các quy phạm pháp luật điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội thuộc một lĩnh vực, liên quan đến cùng một ngành luật: chế định công dân trong ngành luật Hiến pháp), song cũng có chế định pháp luật liên ngành luật (gồm nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, liên quan đến nhiều ngành luật khác nhau: chế định hợp đồng liên quan đến cả ngành luật dân sự, ngành luật thương mại và luật lao động…)

    - Ngành luật:

    + Ngành luật là hệ thống bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh một loại quan hệ xã hội (những quan hệ xã hội có chung tính chất thuộc một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội) bằng những phương pháp nhất định.

    + Mỗi ngành luật thường có đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh riêng của mình. Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là những quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh có chung tính chất (cùng loại), phát sinh trong một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội.

    + Phương pháp điều chỉnh pháp luật là những cách thức tác động pháp luật lên các quan hệ xã hội. Các cách thức tác động pháp luật lên các quan hệ xã hội có thể là: cấm, bắt buộc, cho phép.

    + Các ngành luật khác nhau có những phương pháp điều chỉnh khác nhau. Các phương pháp điều chỉnh pháp luật có thể thể chia thành 2 loại đặc trưng là phương pháp mệnh lệnh và phương pháp tự định đoạt (thỏa thuận).

    - Tổ hợp các ngành luật:

    Việc phân định hệ thống quy phạm pháp luật thành tổ hợp các ngành luật ở các quốc gia khác nhau thường khác nhau.

    + Ở một số quốc gia căn cứ vào chủ thể và lợi ích mà pháp luật bảo vệ có sự phân định thành công pháp và tư pháp. Việc phân định này được thực hiện ở các nước châu Âu lục địa. 

    • Công pháp: Công pháp bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến việc tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước, những quan hệ liên quan tới việc bảo vệ lợi ích xã hội nói chung.
    • Tư pháp: Tư pháp bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa tư nhân với tư nhân, liên quan tới bảo vệ lợi ích riêng của từng cá nhân.

    + Trong hệ thống quy phạm pháp luật xã hội chủ nghĩa, có sự phân định thành các tổ hợp pháp luật: pháp luật hình sự, pháp luật dân sự…

    + Căn cứ vào tác dụng của các quy phạm pháp luật, phân định thành luật nội dung và luật hình thức.

    • Luật nội dung: Luật nội dung gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh, bảo vệ các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
    • Luật hình thức: Luật hình thức gồm các quy phạm pháp luật xác định cơ chế, quy trình, trình tự, thủ tục để thực hiện các quy phạm pháp luật nội dung.

    * Căn cứ để phân định các ngành luật:

    - Đối tượng điều chỉnh:

    + Đối tượng điều chỉnh của 1 ngành luật là những quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh có chung tính chất (cùng loại), phát sinh trong 1 lĩnh vực nhất định.

    + Đây là căn cứ chủ yếu để phân định hệ thống pháp luật thành các ngành luật khác nhau. Mỗi ngành luật chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc 1 lĩnh vực của đời sống xã hội.

    VD: đối tượng của ngành luật dân sự là các quan hệ xã hội về nhân thân và tài sản của các cá nhân, tổ chức, pháp nhân.

    - Phương pháp điều chỉnh:

    + Phương pháp điều chỉnh pháp luật là những cách thức tác động pháp luật lên các quan hệ xã hội.

    + Phương pháp điều chỉnh của ngành luật phụ thuộc vào nội dung, tính chất của các quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh và ý muốn chủ quan của những người trực tiếp ban hành pháp luật thông qua sự nhận thức, ý thức của họ về lợi ích nà nước, của xã hội trong mỗi giai đoạn LS.

    + VD: PP mệnh lệnh dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội mà trong đó có 1 bên tham gia là Nhà nước (QHPL hành chính, hình sự…). PP tự định đoạt thường dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội mà các bên tham gia có địa vị pháp lý bình đẳng với nhau (QHPL dân sự).

    + Đây là căn cứ có tính chất bổ trợ do đặc điểm của đối tượng điều chỉnh quyết định.

    Xem thêm: 80 CÂU VẤN ĐÁP LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT HLU (download file bộ câu hỏi vấn đáp ở bài này)

    Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395


    Continue Reading

     



    * Phân tích khái niệm:

    Thuật ngữ hệ thống pháp luật có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau:

    - Hệ thống pháp luật theo nghĩa chung nhất được hiểu là một chỉnh thể các hiện tượng pháp luật (mà cốt lõi là các quy phạm pháp luật, được thể hiện trong các nguồn pháp luật) có sự liên kết, ràng buộc chặt chẽ, thống nhất với nhau, luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau để thực hiện việc điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội.

    - Hệ thống pháp luật có các đặc điểm cơ bản sau:

    + Hệ thống pháp luật được hình thành một cách khách quan, phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước, các thành tốt của hệ thống pháp luật là do chính các quan hệ xã hội mà chúng điều chỉnh xác lập, không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể ban hành pháp luật.

    + Giữa các thành tố của hệ thống pháp luật luôn có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất và phù hợp với nhau. Sự thống nhất nội tại là một nguyên tắc rất quan trọng của hệ thống pháp luật, biểu hiện ở sự gắn bó hữu cơ khăng khít với nhau giữa các quy định của pháp luật, các nguồn pháp luật với nhau và với các thành tố khác của hệ thống pháp luật. Sự thống nhất của hệ thống pháp luật phải được thể hiện trong từng thành tố, giữa các thành tố với nhau và với cả hệ thống.

    Giữa các bộ phận thành tố của hệ thống pháp luật không chỉ có sự gắn bó, liên hệ chặt chẽ với nhau, mà còn có sự tác động qua lại lẫn nhau, phối hợp với nhau, hỗ trợ cho nhau trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.

    + Hệ thống pháp luật luôn là một tập hợp động, tính ổn định chỉ là tương đối, nó luôn vận động thay đổi, phát triển từ thời kì này sang thời kì khác cho phù hợp với nhu cầu điều chỉnh pháp luật và tiến trình phát triển của đất nước (được bổ sung thêm các quy định, các nguồn pháp luật mới, củng cố các hiện tượng pháp luật khác trong hệ thống và loại bỏ dần những quy định, nguồn pháp luật, hiện tượng pháp luật đã trở nên lạc hậu, không còn giá trị trong hệ thống).

    Khi các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… thay đổi, phát triển thì hệ thống pháp luật cũng thay đổi, phát triển theo để đáp ứng việc điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội ở mỗi thời kì. Do vậy, các quốc gia phải thường xuyên hoàn thiện hệ thống pháp luật để tránh hiện tượng chồng chéo, phát hiện những thiếu sót của các hiện tượng pháp luật, kịp thời loại bỏ những quy định, hiện tượng không còn phù hợp, bổ sung, tạo lập những quy định, hiện tượng pháp luật phù hợp, không ngừng nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội.

    * Ý nghĩa của việc nghiên cứu hệ thống pháp luật trong hoạt động xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật:

    - Đối với hoạt động xây dựng pháp luật:

    + Khi xây dựng pháp luật, phải luôn ý thức được rằng các quy định pháp luật, các nguồn pháp luật luôn có mối liên hệ, ràng buộc, gắn bó chặt chẽ với nhau và phải luôn thống nhất với nhau.

    Do vậy, các tổ chức và cá nhân có thẩm quyền khi ban hành bất kì một quy định pháp luật nào cũng phải chú ý đến tính hệ thống của nó, nghĩa là, quy định pháp luật được ban hành phải bảo đảm sự thống nhất với các quy định pháp luật khác, với các điêu kiện thực thi nó.

    Nếu quy định hay nguồn pháp luật mới ban hành mâu thuẫn, không thống nhất với các quy định hay nguồn pháp luật hiệu hành thì hoặc là phải sửa đổi, hủy bỏ quy định hay nguồn pháp luật mới ban hành hoặc là phải sửa đổi, hủy bỏ các quy định hay nguồn pháp luật hiện hành để luôn đảm bảo sự vận động, phát triển và sự thống nhất của hệ thống pháp luật. Tránh hiện tượng các quy định hay nguồn pháp luật của hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất sẽ làm cho tính khả thi thấp, khó đi vào cuộc sống.

    + Trong hoạt động xây dựng pháp luật thì nguồn pháp luật có hiệu lực pháp lí thấp không được ban hành trái với nguồn pháp luật có hiệu lực pháp lí cao hơn và tất cả chúng phải phù hợp với hiến pháp – luật cơ bản có hiệu lực pháp lí cao nhất.

    + Việc ban hành quy định hay nguồn pháp luật phải chú ý đến khả năng thi hành nó trên thực tế, nghĩa là, nó phải phù hợp với các thiết chế và cơ chế thực thi pháp luật hiện hành.

    Nếu quy định hay nguồn pháp luật đó được ban hành không phù hợp với các thiết chế và cơ chế thực thi pháp luật hiện hành thì hoặc là nó phải được sửa đổi, hủy bỏ hoặc là phải đổi mới, tổ chức lại các thiết chế và cơ chế thực thi pháp luật hiện hành. Tránh hiện tượng các chủ thể ban hành pháp luật không chú ý đến khả năng tổ chức thực hiện các quy định pháp luật mà mình đã ban hành.

    - Đối với hoạt động thực hiện pháp luật:

    + Xuất phát từ tính chất hệ thống của pháp luật đòi hỏi tất cả các quy định pháp luật hiện hành đều phải được thực hiện nghiêm minh, các hiện tượng pháp luật đều phải tối ưu.

    Việc thực hiện hay không thực hiện một quy định pháp luật nào đó luôn có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến việc thực hiện các quy định pháp luật khác, nghĩa là, việc thực hiện quy định pháp luật này sẽ là tiền đề, điều kiện để thực hiện các quy định pháp luật khác.

    Nhiều trường hợp một quy định hay một văn bản quy phạm pháp luật không được thực hiện hoặc được thực hiện không nghiêm minh đã làm cho các quy định hay VBPL khác không thể thực hiện được. Điều này cho thấy không thể coi thường việc thực hiện bất kì một quy định pháp luật nào xuất phát từ tính hệ thống của pháp luật.

    + Khi tiến hành thực hiện, áp dụng pháp luật phải ưu tiên các quy định của hiến pháp, của các nguồn pháp luật có hiệu lực pháp luật cao hơn…

    Xem thêm: 80 CÂU VẤN ĐÁP LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT HLU (download file bộ câu hỏi vấn đáp ở bài này)

    Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395


    Continue Reading

     



    * Phân tích cơ cấu:

    Theo quan điểm truyền thống, cơ cấu của quy phạm pháp luật bao gồm 3 bộ phận: giả định, quy định và chế tài.

    - Giả định:

    + Là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những tình huống có thể xảy ra trong đời sống xã hội mà quy phạm pháp luật sẽ tác động đối với những chủ thể nhất định, nói cách khác, giả định nêu lên phạm vi tác động của quy phạm pháp luật đối với cá nhân hay tổ chức nào, trong những hoàn cảnh, điều kiện nào.

    + Bộ phận giả định trả lời cho các câu hỏi: Ai? Khi nào? Trong điều kiện, hoàn cảnh nào?

    + Những chủ thể, hoàn cảnh, điều kiện nêu trong bộ phận giả định của quy phạm pháp luật phải rõ ràng, chính xác, sát với tình hình thực tế, tránh tình trạng nêu mập mờ, khó hiểu dẫn đến khả năng không thể hiểu hoặc hiểu sai lệch nội dung của quy phạm pháp luật.

    + Giả định của quy phạm pháp luật có thể giản đơn (chỉ nêu một hoàn cảnh, điều kiện) hoặc có thể phức tạp (nêu nhiều điều kiện, hoàn cảnh)

    - Quy định:

    + Là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những cách xử sự mà các chủ thể được, không được hoặc buộc phải thực hiện khi gặp phải tình huống đã nêu ở bộ phận giả định của quy phạm pháp luật.

    + Bộ phận quy định thường được nêu ở dạng mệnh lệnh: cấm, không được, phải, thì, được, có…

    + Thông qua bộ phận quy định, các chủ thể biết được là nếu họ ở vào những tình huống nêu trong giả định của quy phạm pháp luật thì họ phải làm gì, được hoặc không được làm gì, làm như thế nào.

    + Mức độ chính xác, chặt chẽ, rõ ràng của các mệnh lệnh, chỉ dẫn được nêu trong bộ phận quy định là một trong những điều kiện để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh.

    + Bộ phận quy định thường chỉ ra các quyền mà các chủ thể được hưởng hoặc các nghĩa vụ pháp lí mà họ phải thực hiện.

    + Những mệnh lệnh, chỉ dẫn của nhà nước trong bộ phận quy định có thể chỉ nêu một cách xử sự và các chủ thể buộc phải thực hiện mà không có sự lựa chọn. Hoặc có thể nêu ra hai hoặc nhiều các xử sự và cho phép chủ thể có thể lựa chọn cách xử sự thích hợp.

    - Chế tài:

    + Là bộ phận của quy phạm pháp luật quy định các biện pháp cưỡng chế mang tính chất trừng phạt mà nhà nước dự kiến có thể áp dụng đối với các chủ thể vi phạm pháp luật, không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ những mệnh lệnh đã được nêu trong bộ phận quy định của quy phạm pháp luật.

    + Bộ phận chế tài thường trả lời cho câu hỏi: Các chủ thể có thẩm quyền có thể áp dụng những biện pháp cưỡng chế nào đối với các chủ thể đã vi phạm pháp luật, không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ những mệnh lệnh được nêu trong bộ phận quy định.

    + Đối với các chủ thể được nêu ở bộ phận giả định thì được gián tiếp thông báo hoặc cảnh báo cho họ biết nếu như họ ở trong tình huống như ở bộ phận giả định thì họ phải chịu những hậu quả bất lợi, bị trừng phạt bằng những biện pháp gì.

    + Các biện pháp cưỡng chế trong bộ phận chế tài rất đa dạng: phạt cảnh cáo, phạt tiền, phạt tù…

    + Thông thường, chế tài được chia thành các nhóm: chế tài hình sự, chế tài hành chính, chế tài kỉ luật, chế tài dân sự…

    + Bộ phận chế tài có thể cố định hoặc không cố định:

    • Chế tài cố định: là chế tài trong đó nêu chính xác, cụ thể biện pháp tác động sẽ áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật.
    • Chế tài không cố định: là chế tài nêu lên nhiều biện pháp tác động (không nêu biến pháp tác động một cách chính xác, cụ thể, dứt khoát hoặc chỉ quy định mức thấp nhất và mức cao nhất của biện pháp tác động). Việc áp dụng biện pháp nào, mức độ bao nhiêu là do chủ thể có thẩm quyền áp dụng QP lựa chọn cho phù hợp với từng vụ việc.

    + Trong một số quy phạm pháp luật, nhà nước còn dự kiến, chỉ dẫn cả các biện pháp khác (không phải chế tài) để các chủ thể có thẩm quyền áp dụng như:

    • Các biện pháp pháp lí bất lợi nhưng không mang tính trừng phạt đối với những hành vi không thực hiện đúng, chính xác các mệnh lệnh của nhà nước
    • Các biện pháp mang tính hỗ trợ giúp đỡ, tạo điều kiện đối với một số chủ thể rơi vào tình huống cần giúp đỡ…
    • Các biện pháp khuyến khích, khen thưởng về vật chất,, tinh thần đối với các chủ thể có hành vi mang lại lợi ích đáng kể cho nhà nước, xã hội…

    * Ảnh hưởng của việc thể hiện nội dung từng bộ phận của quy phạm pháp luật:

    - Việc thể hiện nội dung từng bộ phận của quy phạm pháp luật giúp cho việc thực hiện pháp luật trên thực tế diễn ra một cách dễ dàng, đúng đắn, chính xác và đạt hiệu quả cao.

    - Từ những thông tin được thể hiện trong các bộ phận của quy phạm pháp luật, các cơ quan hay những người có chức vụ, quyền hạn biết được họ có thể áp dụng các biện pháp nào đối với các tổ chức, cá nhân đã được nêu trong bộ phận giả định của quy phạm, còn các tổ chức, cá nhân cũng biết được cái gì nên làm, cái gì không nên làm, cái gì nên tránh, đồng thời có thể giám sát các chủ thể có thẩm quyền xem họ áp dụng pháp luật có đúng không.

    Xem thêm: 80 CÂU VẤN ĐÁP LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT HLU (download file bộ câu hỏi vấn đáp ở bài này)

    Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395


    Continue Reading

     



    * Phân tích:

    - Chế tài:

    + Là bộ phận của quy phạm pháp luật quy định các biện pháp cưỡng chế mang tính chất trừng phạt mà nhà nước dự kiến có thể áp dụng đối với các chủ thể vi phạm pháp luật, không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ những mệnh lệnh đã được nêu trong bộ phận quy định của quy phạm pháp luật.

    + Bộ phận chế tài thường trả lời cho câu hỏi: Các chủ thể có thẩm quyền có thể áp dụng những biện pháp cưỡng chế nào đối với các chủ thể đã vi phạm pháp luật, không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ những mệnh lệnh được nêu trong bộ phận quy định.

    + Đối với các chủ thể được nêu ở bộ phận giả định thì được gián tiếp thông báo hoặc cảnh báo cho họ biết nếu như họ ở trong tình huống như ở bộ phận giả định thì họ phải chịu những hậu quả bất lợi, bị trừng phạt bằng những biện pháp gì.

    + Các biện pháp cưỡng chế trong bộ phận chế tài rất đa dạng: phạt cảnh cáo, phạt tiền, phạt tù…

    + Thông thường, chế tài được chia thành các nhóm: chế tài hình sự, chế tài hành chính, chế tài kỉ luật, chế tài dân sự…

    + Bộ phận chế tài có thể cố định hoặc không cố định:

    • Chế tài cố định: là chế tài trong đó nêu chính xác, cụ thể biện pháp tác động sẽ áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật.
    • Chế tài không cố định: là chế tài nêu lên nhiều biện pháp tác động (không nêu biến pháp tác động một cách chính xác, cụ thể, dứt khoát hoặc chỉ quy định mức thấp nhất và mức cao nhất của biện pháp tác động). Việc áp dụng biện pháp nào, mức độ bao nhiêu là do chủ thể có thẩm quyền áp dụng QP lựa chọn cho phù hợp với từng vụ việc.

    + Trong một số quy phạm pháp luật, nhà nước còn dự kiến, chỉ dẫn cả các biện pháp khác (không phải chế tài) để các chủ thể có thẩm quyền áp dụng như:

    • Các biện pháp pháp lí bất lợi nhưng không mang tính trừng phạt đối với những hành vi không thực hiện đúng, chính xác các mệnh lệnh của nhà nước
    • Các biện pháp mang tính hỗ trợ giúp đỡ, tạo điều kiện đối với một số chủ thể rơi vào tình huống cần giúp đỡ…
    • Các biện pháp khuyến khích, khen thưởng về vật chất,, tinh thần đối với các chủ thể có hành vi mang lại lợi ích đáng kể cho nhà nước, xã hội…

    * Trên thực tế, bộ phận chế tài thường không cố định vì:

    - Chế tài không cố định là chế tài trong đó nêu lên nhiều biện pháp tác động (không nêu biện pháp tác động một cách chính xác, cụ thể, dứt khoát, hoặc chỉ quy định mức thấp nhất và mức cao nhất của biện pháp tác động)

    - Mặc dù cùng là hành vi xâm phạm đến QHPL được pháp luật bảo vệ nhưng các hành vi đó có sự khác nhau về mức độ nguy hiểm, nguyên nhân, hậu quả, khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của chủ thể,… Do đó, các chủ thể sẽ phải chịu các mức phạt khác nhau. Việc quy định như vậy cho thấy sự linh động khi áp dụng pháp luật, đảm bảo sự công bằng khi cá biệt hóa quy phạm pháp luật.

    Xem thêm: 80 CÂU VẤN ĐÁP LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT HLU (download file bộ câu hỏi vấn đáp ở bài này)

    Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha: BIDV 4603463395


    Continue Reading
    Newer
    Stories
    Older
    Stories

    About me

    REY A law practitioner

    Một người trẻ đam mê và đang trên con đường theo đuổi ngành Luật. Tốt nghiệp Cử nhân Luật tại HLU và đang học Luật sư & Thạc sĩ Luật. Read More

    Donate me

    Nếu bạn thấy những chia sẻ của mình hữu ích thì có thể donate ủng hộ mình 01 ly trà sữa nha:
    BIDV

    Follow me on Facebook

    Follow me on Youtube

    Labels

    CHUYỆN ĐI LÀM (3) ĐỀ THI HẾT MÔN (14) HỌC LUẬT Ở HLU (6) HỌC LUẬT SƯ (6) LUẬT HÀNH CHÍNH (47) LÝ LUẬN CHUNG (111) TIỂU LUẬN (50)

    Cảm ơn đã ghé thăm

    recent posts

    Popular Posts

    • Phân tích đặc trưng cơ bản của nhà nước. Trên cơ sở đó, làm sáng tỏ biểu hiện một đặc trưng của nhà nước Việt Nam hiện nay.
    • 80 CÂU VẤN ĐÁP LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT (có đáp án)

    Blog Archive

    • tháng 8 2025 (1)
    • tháng 6 2024 (2)
    • tháng 3 2024 (2)
    • tháng 2 2024 (1)
    • tháng 1 2024 (8)
    • tháng 10 2023 (30)
    • tháng 9 2023 (115)
    • tháng 8 2023 (73)
    facebook youtube

    Created with by BeautyTemplates

    Back to top